Trang Chủ
Đạo Nam Thiên
Vô Vi Pháp Giới Phật Đạo A Di Đà
Tại Gia Xuất Thế Độ Về Chúng Linh
Phụ Lục
Diễn Tả Nói Thâm Kinh
Tự ta vui với pháp ta, đâu cần ai mới vui – Dương đồng, Âm
hòa.
Công đức của ta : 1970 – 71 – 72 – 73 – 74 – 75 – 76 …
1989.
Đến đây độ 20 năm, 12 tỷ chưa xuất cõi trời Nam Thiên cho
linh.
Chưa được đừng khoe mép mà bị sa lầy.
Tiến sang năm canh Ngọ 1990, số linh đã được độ đến đây + -
= ngàn triệu hiện đời.
Đã được rồi
Đã làm rồi
Đã đến rồi
Tạm đủ rồi.
Ai chưa đắc, chưa được nên gắng làm. Không ai nào cho được,
tự làm mới được.
Đây Phật đạo A Di Đà Tây phương.
Còn cười, còn khóc, còn mê.
Hết cười, hết khóc mới qua luân hồi.
֍֍֍
Đạo Nam Thiên
Thiện Tấn
Ghi lại công đức của đạo, do chánh bản thân hành đạo đến
nay 20 năm của giáo Phật A Di Đà.
Nhật Nguyệt Quang Bồ Tát
Tháng 7 Kỷ Tỵ
Pháp ta trụ lại thành quả tinh tú sáng, tròn hơn mặt trăng,
trong suốt đẹp sáng lớn. Cõi nước này đã thành tựu. 1989, Kỷ Tỵ.
7 báu, 4 đại, 9 giải.
Cuốn cẩm nang huyền cơ cho đời thấy rõ.
Lật một tờ thôi sẽ có vô số sự biến chuyển khác lạ.
Đổi đời, đổi vật mai đây có người da xanh ra đời.
Hướng Đông → Gió
Hướng Tây → Đất
Hướng Nam → Lửa
Hướng Bắc → Nước
Ai Có – Ai Vui
Đây công đức tu hành, chuyển pháp luân thanh tịnh.
Có đạo viên thành pháp thân.
Hào quang bay ra 26 – 27 T2
Pháp thân trong vế hào quang, cũng đông mà chưa bằng người
ta đâu nhé.
Lúc đang ngồi hào quang bay ra,
Khi nhập vào pháp thân vế hào quang này bao trùm cả một cõi
hư không, coi rất là đẹp. Không tính hết được phần công đức này.
Cầu xin cho ai cũng tu đặng quả vô vi – vô thượng này mới
no vui.
1- 1 Kỷ Tỵ
Trì Chú Hộ Thân
Pháp kim cương trụ đại thừa
Nhỏ nhoi phá quấy tan bay tức thời.
Của Đức Phật Thích Ca –
Như Lai hội hộp chúng về, và nói :
Đây ta sẽ chuyển
pháp luân, các ông coi đây mà nhận phần công đức khó có này.
Lời Như Lai nói trước
hội Đại hội Diệu Pháp Liên Hoa, giáo pháp Bồ Tát pháp, Phật sở hộ niệm.
Ở đời nay, khối thanh đi, khối trược đến.
Nay khối trược đi – khối thanh đến, sang qua đây có đạo có
pháp, có tự do vui, no đủ. Chúng sanh tạo ác thì ác đến báo, tạo thiện thì có
thiện đến báo. Các khảo đi và đến liên tục, lớp này đi lớp kia lại. Nền tảng
lành cũng vậy – lành số 1 đến - qua đó lành số 2 đến và số 3. Tiếp ác thì ác đến,
lành thì lành đến …vân vân.
֍֍֍
Ta sanh ngày 7/7 giờ Ngọ, năm Canh Thân.
Đấng Nhứt Thiết Trí
Nhứt Thiết Kiến
Trí Đạo
Tự tánh vươn lên đạo mới thanh
Các Pháp vãn hồi có tôi – anh.
Đắc pháp đắc quả mới đặng no.
Tu không có đắc ắt bò đi xin.
Đói ăn, rách mặc phải tìm
Bước đi té ngã mà chìm ngục sâu.
(coi chừng)
Cẩn thận suy xét so lường
Đừng tự chôn vùi linh hồn
Đứng đây trông kia thì bị liệt, ắt không có chỗ đi.
Kéo co, lê lết thì bị phơi khô.
Chẳng ai nào tháo gỡ cho đâu.
Đừng có vọng mơ hồ sẽ bị mục nát, mất linh hồn.
Chơn tu đạo tinh tấn, mới xem đặng trong đây,
Kẻ sơ cơ tiểu mọn xin đừng xem – khinh bỉ, chê bai ắt sẽ …
không nên …
Phật pháp tinh vi lắm…
Sai một ly khắc thôi cũng đời đời xa pháp, không có ai hỗ
trợ cho tu đâu.
Ngó đây biết đạo thế nào
Không duyên đầy đủ khó vào pháp quang.
Đừng lơ bỏ hững tay chèo
Thuyền chìm còn biết kêu ai bây giờ.
Xin đừng lãnh đạm thờ ơ
Một mai gầy ốm xác sơ ai gần.
Cân nhắc đường tu ngắn hay dài
Xem cân nặng nhẹ biết về ai ?
Hỏi thử chơn tướng còn công đức
ở trần mắc mớ phải kêu ai.
Chớ coi rẻ tiền biến công phu
Sẫy sàng lọt hết có dư đồng nào.
Có ai thấy đạo tại gia
Siêng năng, hèn kém, có tòa ngồi cao.
Dù ai tu đắc thế nào
Đường ta lo giữ ai nào mặc ai.
Tịnh tu tinh tấn mới tài,
Ngày đêm bỏ ngủ miệt mài thiền công.
Pháp về ngó thấy chủ ông
Chỉnh tề pháp tướng diệu thanh sáng ngời.
Biết tu đi đứng nằm ngồi
Niệm chơn chớ có ngừng lời bên âm.
Không hành ắc phải khóc thầm
Tu không pháp bảo vào hầm phải lâu,
Tối đen chẳng biết gì đâu,
Nghiệp đời đưa lại ngút cao bằng trời
Bây giờ than thở ngắn dài,
Có ai nào giúp cho vài ba câu.
Lười
biếng suy nghĩ đau đầu
Nghiệp
vương cuốn mạnh ai nào thấy đâu.
Làm
cho đến phải rơi châu
Âm
thầm khổ não biết bao buồn lòng.
Hỏi
xem tình vợ nghĩa chồng
Làm
sao tháo gở các gông cho mình.
Tu
suông cũng phải có thầy,
Không
thầy chỉ giáo ai tầy nên thân.
Pháp
tạng A Di Đà – con cháu tu theo đây để về cõi Tây Phương.
֍֍֍
(Quan trọng bực nhứt)
Ta nghe như vầy :
Phẩm Kinh tựa đề là chư Phật chuyển Pháp Hoa – độ cho vô lượng
chúng sanh trong pháp giới.
Công đức lớn của chư Phật có một không hai, khởi thủy từ vô
thỉ. Mỗi lần Phật ra đời là diễn Pháp Hoa thanh tịnh, độ cho cả mười phương,
pháp xuất ra từ lông trắng giữa chặng mày – phóng đi qua một vạn tám ngàn cõi
nước Phật. Ánh quang của các pháp làm thông bạch từ cõi nước này đều thấy được
các chúng sanh ở các cõi kia, các hình sắc tứng mạo, và hành xử của chúng nơi
đây đều thấy rỏ, không có ngăn cách. Công đức của các đấng Phật thế tôn là nuôi
dưỡng làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh.
Một thời pháp chuyển ra trải lâu hằng 10 – 20 tiểu kiếp.
Khi mở đầu khai hội – Đức Phật hội về các chúng đệ tử của
chứ thánh, chư Bồ Tát, cùng các chư Thiên Vương, và chư thiên, thiên thần đủ
các loại chúng sanh từ nơi nơi hội về, nghe thấy biết tận mắt các công đức Phật
đem phô bày cho mọi người tin về công đức của đấng Phật là như thế.
Có các loài chúng sanh đến như : Ca Lầu La, A Tu La, Khẩn
Na La, Ma Hầu La Già, nhơn và phi nhơn đều đến tham dự, lớp lớp đầy cả mười
phương cõi – nên nói là Pháp Hoa – trước đó Như Lai Phật nói pháp âm về việc
chuyển các pháp thanh tịnh, sau đó diệu như thế nào và có mục đích gì …?
Tức là ngài chuyển pháp ra làm cho cõi đất mát dịu trở lại,
các chúng sanh đặng nhập pháp của Phật mà đặng sống lâu, và tu hành chóng thành
quả.
Mỗi thời chuyển Pháp Hoa có vô lượng chư Bồ Tát ở mười
phương đều hội đến nghe Pháp Hoa của Như Lai.
Khi pháp Phật chuyển ra, hình sắc đều sáu nhịp rúng động mạnh,
chư thiên đem hoa bắn về cúng dường, hoa mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, rải trên
đức Phật đống như núi Diệu Cao đem các hương bắn các đồ quý ngọc châu, chuỗi hột
tràng phan, lọng nhiễu, các kỹ nhạc về trời lên xướng ca, cúng dường Phật, thời
kỳ lâu cả mấy chục tiểu kiếp.
Giảng pháp và chuyển pháp xong đợt đầu, Như Lai quán soi
xem xét hình dung công đức, tướng mạo của chư đệ tử để đặng thọ ký đạo quả làm
cho chúng thêm vui mừng, có sức tin mạnh vào Phật pháp để trở nên hàng bất thối
đạo, vì chúng sanh khó đến, khó vào được các pháp của chư Phật – nên làm cho
chúng tin về - mà xa lìa lòng chấp, được dứt trừ tham – trược, đặng vào cõi vô
sanh, cứu cánh niết bàn.
Các loại chúng sanh
từ vô thỉ tới nay đều là nhờ nơi các pháp của đấng Phật mà đặng sống và tu hành
thành đạo, lên đến quả vị Bồ Tát, đại Bồ Tát đều là nhờ ở nơi các đức Phật mà
hưởng quả vị thanh tịnh, đều trụ về hư không bằng trăm ngàn sông Hằng chứa cát
cũng chưa bằng số chúng sanh tu về đạo của đấng Phật thế tôn, do đó mới có lời
diệu nghiệm – Như Lai ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế
gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, nhơn thiên sư, thiên thế đều tôn
kính, sùng bái, lễ lạy, phụng thờ trải qua hằng sa số kiếp vẫn không dứt.
Về phương tiện, đức tin của chúng sanh đi theo giáo pháp của
đấng Phật thì chắc cõi đất không còn chúng ma quỷ chôn sâu vào ngục mà đọa khổ.
Chư Phật thấy rỏ nghiệp căn của chúng sanh cấu tạo nặng nề, tùy theo cơ nghi mà
giải nói làm cho chúng vững lòng qui theo và tin mạnh vào nơi Phật.
Đấng Như Lai thường làm những hạnh khó có thể so lường. Phật
thấy chúng sanh đọa khổ, rồi rớt vào nhà lửa Tam giới nên ngài mới ra đời để dẫn
dắt chúng ra khỏi nạn lửa thiêu đốt. Ngài có thể dùng sức mạnh để dập tắt ngọn
lửa nhưng ngài không làm, mà dùng phương tiện dẫn dắt chúng sanh ra khỏi.
Khi chúng sanh ra khỏi nhà lửa, Như Lai đem đồ quí mà ban
cho, như các thứ xe : Xe dê, xe hươu, xe trâu để kéo dạo đi chơi đặng phần công
đức lớn chưa từng có. Chúng đã ra khỏi nạn lửa lại được vật báu và đồ chơi tốt
đẹp, và đặng quả báu thọ hưởng dài lâu lại được đạo phẩm cao sang, dứt được nghiệp
sanh tử luân hồi đặng phần Phật pháp an lạc, và ngài chỉ giải cho phần tu hành
để chứng quả Bồ Đề.
Ngài nói pháp tứ đế khổ - tập – diệt – đạo để xa lìa sự
tham sân, xa lìa dục lợi điên đảo mà tu vào đạo nhứt thừa, quả vô sanh pháp nhẫn.
Ngài chỉ cho phương tiện tu đạo giải độc của 12 nhân duyên – vô minh, hành, thức,
lục, nhập, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử của bi khổ do nhân
duyên của pháp sanh tử tạo ra có 12 loại này. Nên hàng thanh văn tăng và duyên
giác phải diệt tắt 12 quả này để đắc đạo ngũ thông – Bích Chi Phật.
Đây là đạo thánh, trụ về cõi sắc cứu cánh, gọi là cõi hữu
đãnh Cứu Cánh Niết Bàn. Đặng xa lìa nghiệp dữ, để trụ đây mà tu đạo Bồ Tát vào
Phật thừa của Như Lai. Trong 12 loại nhân duyên ngài nói diệt tắt vô minh thì
hành dứt, diệt hành thì thức dứt, diệt từ danh sắc diệt, danh sắc diệt, lục nhập
diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ dứt, diệt thọ
thì ái dứt, diệt ái thì thủ dứt, diệt thủ thì hữu dứt, diệt hữu thì sanh dứt, diệt
sanh thì lão dứt, diệt lão thì tử mất, diệt tử thì ưu bi khổ não dứt.
Diệt được 12 pháp này thì đặng qua duyên giác đạo, Như Lai
để lại 3 thừa giáo là thanh văn thừa gọi là đạo tứ đế.
Thừa thứ 2 là duyên giác thừa, thứ 3 là Bồ Tát hay Phật thừa.
Như Lai nói nắm vững trong 3 thừa giáo này thì an vui khoái lạc, đặng quả vui đời
đời an ổn, đặng thiền định giải thoát tam muội.
Như Lai chia cho 3 thứ xe, như xe Dê là thanh văn thừa, xe
Hươu là Duyên giác thừa, xe Trâu là Phật thừa hay Bồ Tát thừa cũng vậy. Ba thứ
xe lạ này Như Lai đều có rất nhiều, có thể chia cho chúng sanh cả nước cũng
không hết, vì Bồ Tát thừa ví như Bồ Tát Ma Ha Tát đặng xe Trâu mà dạo chơi. Như
Lai nói khổ nạn của nhà lửa chất chứa các loại chúng sanh toàn là quỷ dữ, thú dữ,
trùng độc chúng cắn xé nhau, ăn thịt lẫn nhau, máu me chảy tràn, đồ bất tịnh,
các quỷ dữ gầm la, hét gào chạy đi chạy lại trong đó tìm kiếm của ăn, gầm gừ
tìm lối ra mà vẫn không ra được. Như Lai ở trong cửa sổ nhìn ra, nào là quỷ dữ,
độc trùng, rắn độc, bò cạp rết, rận hùm, đều là thứ dữ ai bị nó đốt là đau đớn
vô cùng. Nên Như Lai dẫn dắt cho qua 3 cõi là Dục Thiên nhơn gian, đặng xa lìa
dục nhiễm, đi nhập về thánh giới đặng dứt lìa sanh tử mà thọ đạo thanh văn, gọi
đó là xe Dê để qua khỏi nhà lửa. Lại cầu quả duyên giác đặng xe Hươu để ra khỏi
nhà lửa cũ mục nát.
Như Lai ngài nói muốn cho chúng vào đạo Bồ Tát cả để trao
cho một thứ xe lớn, như xe Trâu, nên tạm chỗ nghỉ chân mà để đó làm 2 thừa,
thanh văn thừa và duyên giác thừa.
Nếu chúng sanh lìa được các tham dục, đó là đế thứ 3, đó là
chứng diệt đế vậy, để vào hàng nhất thừa – hàng thanh văn tăng, qua đây mà tu
vào đạo đế lìa hết các khổ - gọi đó là giải thoát, dứt tất cả sanh tử mới là
vào đạo trí kiến của chư Phật – gọi là tu Bồ Tát đạo, tu đủ đạo Bồ Tát đặng 32
tướng tốt, đủ 6 ba la mật, đủ 6 thần thông – có 8 đạo giải thoát, đó mới được
diệt độ để thành Như Lai Phật mà trụ cõi niết bàn, pháp lưu ly làm đất, có 8 đường
giao thông, có dây vàng băng qua đường, có các loại bông hoa đẹp, vân vân.
Như Lai dặn chư đệ tử của ngài – các ông nên cẩn thận, chớ
có vội tuyên truyền kẻ hạ căn độn nghe không kính tin, và hờn oán ganh ghét. Hạng
người như vậy chớ nên vui vì đó nói. Kẻ kiêu ngạo biếng lười nghe thấy càng giận
hờn, vì đó chúng lại đọa dữ, chết sa vào ngục A tỳ, trải muôn ngàn năm trong ngục.
Khi sanh lên thì thọ thân chó, rồi thọ thân rắn trải qua vô lượng kiếp làm thú,
sau sanh lại làm người, lại bị thiếu căn và không ai giúp đỡ, hỗ trợ, ai cũng
chán ghét… Vì mất giống Phật ở thế gian.
Cho nên kinh này phải giữ gìn, không để lọt vào dân ma và
hàng người đa tội, chúng nhạo báng sẽ bị tội khổ cho chúng, nên vì đó mà phải
nên cẩn thận dành cho hạng người tâm tốt và tìm cầu học Phật, tâm ý chơn thiệt
– mới vì họ mà nói. Người tại gia xuất gia, những người hiền sĩ có trí đức hiền
hòa, siêng năng cầu lễ Phật, hàng trí thức tâm thiện, mới nên vì họ nói. Chọn hạng
nào nói, hạng nào không nên nói.
Phẩm Tín Giải
Mỗi lần Như Lai chuyển Pháp Hoa là sự quan trọng:
A – Là vì chúng sanh tổn hao phước đức .
B – Là chỉ dạy cho chư Bồ Tát để khéo biết duyệt pháp mình
và nhận các pháp của Như Lai sang cho các phần công đức, và xem hạnh bố thí
pháp của Như Lai thế nào. Xem xét công hạnh để thọ ký quả cho chư đệ tử và chuyển
pháp độ chúng sanh – nói pháp và thừa xong nhập chánh định chuyển các pháp ra độ
chúng sanh.
Như Lai ra đời để làm cho chúng vững đức tin, nên có người
mà Như Lai phải đón đợi ở đó, chúng đâu còn bỏ chạy, mà phải đi tìm gọi về đến
2 lần, chia sớt quả vật cho, và dặn dò chỉ bảo cho làm, chỉ cho chỗ chứa đựng
vàng bạc…
Tức là các pháp là mục tiêu chỉ cho các pháp mà thâu góp và
bảo cho đường tu hành, gội rửa các chỗ dơ, đặng đi vào huệ của Phật. Lúc đầu
chúng đâu biết gì, là đạo gì, là Phật gì, là pháp gì – nên phải có sự chỉ dạy cặn
kẻ, hiểu rành rẽ rồi mới giải từ từ vào ngõ ngách – nay dọn chỗ này, quét chỗ
kia, siêng dọn hốt đừng lười mỏi bỏ bê, phải siêng năng chăm chỉ… Chắc sẽ được
nhiều lợi ích không nhỏ.
Ông trưởng giả đây là đức Như Lai với quyến thuộc của ngài.
Ví như cha đi tìm con vậy, các con lâu ngày tạo nghiệp, công đức tiêu mòn thân
xác dơ gầy, đen đủi, xấu xa, ghẻ lở rách rưới, không nơi nương ở, đói nghèo… Chỉ
lo tìm của ăn vật mặc. Các người con trở về lại dần dần, dạy bảo nuôi cho ăn mặc,
dạy giáo điều, khuyên giải chỗ tu thân, tức là lọc tắm gội thân – cảnh nghiệp
thức…
Dược Thảo Dụ
Như Lai ra thế gian, đem các pháp mình có ra ban rải khắp hết
cõi Tam Thiên - Đại Thiên, xả nước tuôn xuống xối xả không bỏ xót hở một ly. Có
nước làm thấm mát tất cả cỏ cây, tùy theo sức hưởng thọ của mỗi loại đều được
thấm mát tươi đượm, nhánh lá tươi xanh mà đơm bông kết trái.
Thì các pháp của Đức Phật cũng như vậy, Phật chuyển pháp ra
hạ xuống cho chư thiên chúng và nhân gian, cả tam đồ lục đạo cũng đặng hưởng
pháp ví như cây cỏ lùm rừng, ai cũng được mập tốt, sáng sạch không còn gầy xấu.
Như đói đặng cơm no, như khát đặng nước mát, như rét đặng y áo ấm, như bịnh đặng
thuốc tốt, như qua sông có đò, như lửa thiêu có nước tắt, như thiếu căn đặng đủ
đầy. Chưa tu thì được tu, chưa đắc thì được đắc, chưa chứng quả thì được chứng
quả, chưa tỏ thì được tỏ ngộ, chưa đắc pháp thì được đắc pháp, chưa đắc đạo thì
được đắc đạo, vân vân...
Đức Như Lai ra đời cũng lại như vậy, dùng giọng tiếng lời
vang ra, bao trùm khắp cả Tam Thiên - Đại Thiên, khắp thế giới trời người A Tu
La. Như vần mây lớn trùm khắp cõi Tam Thiên - Đại Thiên, Phật ở trong đại chúng
mà nói lời nầy “Ta là Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn. Người
chưa độ thì làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thì làm cho tỏ ngộ, người chưa
an thì làm cho được an, chưa chứng niết bàn thì làm cho chứng niết bàn. Đời nay
và đời sau Phật đều biết đúng như thiệt. Ta là bật Nhứt Thiết Trí, bật Nhứt Thiết
Kiến, là bật tri đạo, bật khai đạo, bật thuyết đạo. Các ngươi - hàng trời, A Tu
La đều nên đến đây nghe pháp vậy.
Bấy giờ có vô lượng chúng sanh đi đến chỗ Phật mà nghe
pháp. Lúc đó Như Lai xem xét các căn lợi hay độn của chúng tinh tấn hay giải
đãi, các chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng, đặng nhiều lợi
lành, do đạo mà được hưởng quả vui và được nghe pháp. Đã được nghe pháp rồi đặng
lìa khỏi các chướng ngại lần lần đều được vào đạo.
Như mây kia mưa thấm ướt tất cả lùm rừng và cỏ thuốc, theo
giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng. Như Lai nói
một tướng một vị, tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt rốt ráo, đến bật
Nhứt Thiết Chủng Trí. Có chúng sanh nào nghe pháp của Như Lai, đúng như lời tu
hành được công đức tự mình không hay biết.
Chỉ có Đức Như Lai biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh
đó, nhớ việc gì, nghĩ việc gì, tu việc gì. Nhớ thế nào nghĩ thế nào tu thế nào,
dùng pháp gì để nhớ, dùng pháp gì để tu, vân vân...
Như Lai thấy biết rốt ráo đầy đủ. Chúng sanh không biết
tánh trung hạ của nó, tướng rốt ráo trọn về nơi không. Tất cả các chúng sanh đã
đặng nghe pháp của Phật, không ai là không ăn sâu vào Phật đạo, cũng không còn
thối thất.
Như Lai nói các pháp đều là pháp thanh tịnh, vi diệu một vị,
một giống, không có hai - ba nào là như ý. Pháp mà làm cho chúng đặng thuần thục,
các chư Bồ Tát đều được công đức gấp bội, có chúng sanh nào tu hạnh thiền định
trí huệ, lại đặng quả tốt lớn thêm, gọi là cây cỏ thuốc lớn, tu trí huệ bất thối
đặng cây nhỏ, trở thành cây lớn tốt, vâng vâng... Có đủ tri kiến thần thông ba
la mật. Nếu có vị trụ thiền đủ sáu pháp thần thông, lại đặng ba món minh nghe
nói các pháp không dứt, lòng sanh vui mừng, phóng vô số hào quang, độ vô số
chúng sanh, đó gọi là cây lớn, lại đặng thêm lớn tốt.
Phật chuyển pháp ví như vần mây lớn, để đượm nhuần hoa người,
đều đặng kết trái cả. Phật chỉ bày tùy theo căn mạng mà nói pháp, các Đức Phật
cũng thế “Chỗ các ông tu hành là đạo của Bồ Tát, chứ ông chưa đầy đủ nên phải
siêng tinh tấn đời sau thành Phật quả”.
Đức Như Lai nói pháp xong vào bảo các chúng tỳ kheo rằng
“Các ông nên một lòng nghe, ta lấy Phật nhãn xem ông Xá Lợi Phất đời sau qua vô
lượng kiếp sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai thọ 12 tiểu kiếp, có vô số Bồ
Tát quyến thuộc và chúng thanh văn số nhiều vô lượng. Đức Hoa Quang Phật lấy đất
lưu ly lập quốc độ, cõi đất sáng đẹp. Đức Phật Hoa Quang đó chính là thân của
ông”.
Ngài lại bảo “Ông Ca Diếp, đệ tử lớn của ta, sau đây thờ
cúng ba trăm muôn Đức Phật, sẽ được làm Phật hiệu là Quang Minh Như Lai ứng
cúng, chánh biến tri, thành chánh đẳng chánh giác, nước tên Quang Đức, kiếp là
Đại Trang Nghiêm, Phật thọ mười hai tiểu kiếp, cõi nước tốt đẹp sạch sẽ, Bồ Tát
và thanh văn đầy khắp cả nước”.
Phật bảo các thầy tỳ
kheo rằng “ông Tu Bồ Đề đệ tử lớn của ta, đến đời vị lai phụng thờ ba trăm năm
muôn ức các Phật thế tôn, cúng dường tôn kính ngợi khen, tu hạnh thanh tịnh đủ
đạo Bồ Tát, ở thân rốt sau đặng thành Phật hiệu là Danh Tướng Như Lai Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, kiếp là Hữu Bữu, nước là Bữu Sanh, đất
bằng lưu ly, không có gò nỗng, hầm hố gai góc chông. Nhơn dân đều ở đài báu lầu
gác đẹp. Đệ tử thanh văn đông vô lượng vô biên không tính kể, thí dụ không thể
biết được Bồ Tát đông vô số nghìn muôn ức na do tha. Thọ mười hai tiểu kiếp, Đức
Phật đó trụ trên hư không mà vì chúng nói pháp độ thoát vô lượng Bồ Tát và
thanh văn. Có ba món minh, đủ sáu thứ thần thông, trụ tám pháp giải thoát. Đức
Phật đó nói pháp hiện ra vô lượng món pháp thần thông biến hóa chẳng có thể
nghĩ bàn. Các hàng trời nhân dân số đông như hằng sa. Thọ mười hai tiểu kiếp,
trụ ở đời hai mươi tỉ kiếp”.
Như Lai Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho các thánh A La Hán rồi,
và dùng Phật nhãn xem xét công đức của các ông và nói “Ta ghi cho các ông đời vị
lai, trải qua nhiều đời thờ phượng cung kính tôn trọng cho nhiều đời Đức Phật,
xây dựng tháp bằng bảy báu, cao năm do tuần, bề rộng xứng nhau, tu phạm hạnh
thanh tịnh đủ đạo Bồ Tát sẽ thành chánh đẳng chánh giác Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”
Như Lai nói và diễn công đức của đấng Phật và nói các pháp
chỉ giải cho mỗi lớp đạo theo đó mà tu lên theo chánh pháp mà diệt tắt các khổ
cho bản thân và độ cho vạn loại chúng sanh. Như Lai nói hạnh của chư Bồ Tát đã
làm như thế nào, chỉ hạnh của các Đức Như Lai làm như thế nào, các thánh làm
như thế nào để tiến về Phật đạo.
Nói việc mình, chỉ việc mình
Nói việc người, chỉ việc người
Nói hạnh mình, nói hạnh người
Cho các đường hướng thanh tịnh để vào đạo tri kiến của chư
Phật. Đạo tri kiến thấy xa biết rộng của đấng Phật mà trong mười phương chỉ có
đạo Phật là rốt ráo giải thoát, không còn đạo nào trên mà chỉ có đạo Phật là một
thể tướng tánh đều trụ về nơi không, các pháp đều nghiêm tịnh vi diệu, là chỉ
có chư Phật mới đến đó được. Sau đó đức Thích Ca Mâu Ni thọ ký nhơn cho chúng hữu
học tám ngàn người, đây là đời Phật xuất thế của đấng Thích Ca Như Lai, đem các
đức cao diệu ra ứng thọ cho chúng, để mọi người tin về mà giữ đạo bất thối.
Nên ngài nói “Các ngươi đã đặng đạo quả và thọ ký đạo cho đạo
vị lai”. Ai ai cũng đều mừng rỡ mà giữ ngôi đạo bất thối đợi ngày thành chánh đẳng
chánh giác .
Như Lai nói đạo tứ đế cho người cầu quả thanh văn, khổ tập
diệt đạo cho bốn chúng đặng xe dê, đạo mười hai nhơn duyên cho người cầu quả
duyên giác, để đặng xe hươu, và nói sáu ba la mật cho hàng cầu quả Bồ Tát, để đặng
quả xe trâu.
Loại thanh văn thừa, và duyên giác thừa để trụ cõi cứu cánh
niết bàn, đạo quả Bồ Tát thừa trụ cõi niết bàn. Các Đức Như Lai ra đạo, có một
mục tiêu là chuyển các pháp lành để độ chúng và chỉ đường cho biết lối đi trở về,
chỉ giải giáo lý cho chúng tu hành theo pháp đại thừa, thân căn của chúng đặng
nhập vào trụ pháp của hàng thánh mà tiến lên hàng Bồ Tát Phật, đặng đầy đủ công
đức trụ vào cõi niết bàn.
Đây là nói ý nghĩa rút gọn các công đức vô lượng của chư Phật.
Cõi niết bàn là các pháp sáng trong sạch, gọi là đất lưu ly, sáng như điện,
không một hột bụi trần lọt vô, sáng bóng như mặt gương trong, có hương tốt
thơm, hoa quí và nhạc cúng đầy cõi nước.
Mỗi lần Đức Phật ra đời đều có một thời chuyển pháp bay ra
tưới cả mười phương cõi, làm cho chúng sanh tươi đẹp giác ngộ, sống lâu và đắc
đạo. Pháp bay ra qua một vạn tám ngàn cõi nước Phật. Nơi đây đều thấy đặng các
cõi nước kia, coi gần như trước mục tiền, các tướng mạo hình sắc đều thấy rõ,
và các cõi đó tạo nghề nghiệp lành hay dữ cũng thấy rõ, hiện ra không thiếu.
Các đạo của chúng tu hành cũng thấy rõ.
Nói kinh là nói công đức của chư Phật và chư Bồ Tát là vì
chúng sanh mà hiện thân ra cứu độ, ngoài ra không một việc gì khác. Nên mỗi thời
chuyển pháp bay ra đầy cõi hư không, pháp ấy hiện ra hoa thơm, mà ở trên thiên
địa không có các loại đó, ở cõi thiên đem hoa mạn thù sa, đại mạn thù sa, ma ha
mạn thù sa về cúng dường chư Phật, chất đầy hơn núi Diệu Cao, nên các trống trời,
nhạc trời đến và trỗi kỹ nhạc cúng dường mỗi thời lâu cả mấy tiểu kiếp.
Như Lai nói thời lâu xa vô lượng a tăng kỳ kiếp có Đức Phật
Đại Thông Trí Thắng tu mười tiểu kiếp mới thành Phật và chuyển pháp đi độ cả mười
phương cõi, xa năm vạn bốn ngàn cõi một thân lực mạnh chưa từng có vậy.
Pháp bay ra rọi vào các cõi thiên, các cung điện đều sáng đẹp
gấp ngàn lần ánh sáng của cung điện trời. Nên chư thiên vương rủ nhau tìm đến chỗ
Phật để cúng dường, thời gian lâu năm mươi tiểu kiếp. Đức Đại Thông Trí Thắng
Như Lai thời còn làm vua có sanh ra mười sáu người con, nay đều thành Phật, đều
trụ ở mười phương. Như Lai chuyển pháp vào các cõi của chư thiên, làm cho các
thiên chúng đều đắc quả vô sanh pháp nhẫn, có lắm vị không hề thọ một pháp nào
cũng đều đắc A La Hán đạo. Các công hạnh từ bi của chư Phật làm cho bốn chúng đều
đặng đạo quả, mà dứt được nghiệp tội, dứt sanh tử, dức luân hồi, không phải lăn
lộn vào nẻo chết.
Tất cả các đạo duy chỉ có đạo của chư Phật mới giải thoát
khổ ách cho chúng sanh, làm tiêu tắt phiền não tham dục, khiến mọi người đều
vào pháp tánh vô lậu mà trụ vào cõi Sắc Cứu Cánh niết bàn, dần dần tiến vào đại
đạo của Bồ Tát.
Xem kinh tức là hiểu rõ công đức của chư Phật vì chúng sanh
tất cả không dành lại món nào cho đạo tri kiến cho chúng sanh tự diệt độ mà
thành chánh đẳng chánh giác. Đạo bất thối là không buông bỏ hạnh đại từ bi, đại
hỷ xả, đại nhẫn nhục, đại hạ liệt và quên mình vì người.
Có thể coi bản thân mình như là không có, coi bản thân mình
thấp bé hơn tất cả, thì các phẩm Pháp nào cũng đến với mình cả. Trong 36 phẩm
trợ đạo và 48 Pháp bồ đề tam muội và Đà La Ni đều đến lại với mình, và không hề
khó nhọc. Vì Phật Pháp là vì chúng sanh, diệt khổ cho chúng sanh. Nuôi dưỡng
cho vạn loài, làm cho tất cả đều thành Phật đạo. Các đức Phật đều quán biết tất
cả các loại chúng sanh, loại có phước, loại không phước, loại có tội loại không
tội, loại có đức, loại không đức, loại có đạo, loại không đạo, loại ác loại thiện,
loại hung dữ, loại hiền lành. Biết cả bổn tánh của chúng ưa muốn vân vân…
Không một vật gì mà đức Phật không biết, đức Phật biết tới
vô tận kiếp số, ví như lấy hết đất của ngàn thiên quốc se ra làm mực, với tất cả
số đất ấy rồi đi qua hai ngàn cõi nước bèn chấm một điểm đất mực, và cả chỗ
không chấm cũng lấy hết rồi se làm bụi, đợi một kiếp lâu mới nhỏ một bụi, nhỏ hết
số bụi đó đến đây Phật đều thấy rõ không ngăn cách, và cả cho đời vị lai cũng lại
biết hết gốc ngọn vô thỉ, hiện tại, và vị lai vân vân…
Một kiếp là một tỷ bốn trăm triệu năm, đợi hết một tỉ bốn
trăm triệu năm mới nhỏ một bụi trần suy ra thấy lâu xa vô tận vô biên không có
một mối đạo nào qua được Phật đạo. Thời nói Kinh là thời chuyển pháp lớn, là thời
Pháp Loa, là tột hơn hết.
Nên nói Kinh Pháp Hoa là vua của các Kinh, trong đó chỉ có
Kinh Pháp Hoa là trên tất cả sáng sạch hơn cả, các Pháp đều không dũng mạnh
hơn. Sức thần thông cũng tột hơn tất cả. Sự nhanh chóng mau lẹ hơn tất cả. Gọi
là Pháp vi diệu, đức một thể một vị một mầu, không có hai hay ba nào khác. Như
nước chỉ có một vị.
Như Lai nói lại : Đời
xa xưa ở cõi Ta Bà này có đức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai ứng cúng, chánh biến
tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng
phu, thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn.
Ngài ra đời đi bảy bước, đưa tay chỉ lên trời nói “Trên thượng
dưới hạ, duy ngã độc tôn”, có nghĩa là trên trời dưới đất chỉ có mình ta là được
tôn kính. Ngài ra đời độ chúng sanh hết sáu mươi kiếp, chuyển pháp luân cũng 3
thời, mỗi thời lâu xa mười kiếp. Lần đầu tiên có mười sáu vạn đệ tử đặng thọ ký
– lần sau mười hai vạn đệ tử đặng thọ ký, lần thứ ba – mười vạn đệ tử thọ ký.
Chúng sanh sống tới tám vạn tuổi, tám mươi ngàn tuổi. Ngài nhập diệt lại có đức
Phật hiệu là Thi Khí ra đời, chuyển pháp luân cũng ba thời, thọ ký cho đệ tử lần
đầu bằng mười vạn, lần thứ hai bằng tám vạn, thứ ba - sáu vạn được thọ ký. Ngài
độ lâu mười kiếp. Chúng nhân dân sống bảy vạn tuổi. Như Lai nhập diệt lại có đức
Phật hiệu là Tỳ Xá Bà ra đời, chuyển hai thời Pháp độ chúng sanh, thọ ký cho đệ
tử sáu vạn lần đầu, bốn vạn lần chót. Nhân dân sống sáu vạn tuổi, ngài độ lâu
chín kiếp. Sau đây ngài nhập diệt lại có đức Phật hiệu là Câu Lưu Tôn ra đời, độ
năm kiếp, chuyển một thời Pháp thọ ký cho bốn vạn đệ tử. Chúng nhân dân sống
lâu năm vạn tuổi.
Như Lai nhập diệt lại có đức Phật hiệu là Câu Na Hàm ra đời
độ chúng bốn kiếp, chuyển một thời Pháp độ cho ba vạn đặng thọ ký. Chúng nhân
dân sống bốn vạn năm tuổi, ngài nhập diệt lại có đức Phật hiệu Ca Diếp ra đời,
độ chúng sống hai vạn tuổi, chuyển một thời Pháp thọ ký cho đệ tử có hai vạn.
Ngài nhập diệt lại có đức Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni ra đời độ chúng sanh có một
trăm tuổi, một lần chuyển Pháp độ có một ngàn hai trăm năm
chục
đệ tử. Độ lâu có ba ngàn tuổi, đến nay đã hai ngàn năm trăm ba mươi bốn năm, đây là năm Canh Ngọ, còn 66 năm nửa là chấm
dứt của thời Pháp độ. Kể từ đó lại đến đây là chín mươi mốt kiếp, gồm cả ba
ngàn năm của Đức Thích Ca Như Lai – Đây
là thời Pháp tàn lụn.
Ở đây chỉ ghi cho hàng Phật tử tin nhận, biết được Phật
Pháp, siêng năng tinh tấn, lo cầu đạo, tu đạo, giữ hạnh đạo, nhận
tin đạo quay về…
Cứ mỗi một đợt Pháp Hoa được chuyển ra, trong hào quang
phóng ra là có một vạn tám ngàn chư thánh Tỳ Kheo xuất hiện tướng sáng, đi dạo
trong Pháp hào quang làm cho chúng sanh được sáng tươi trở lại, các mầm đen tối
đều được tiêu tan. Thân và cảnh vật đều được sáng sạch,
lẽ
ra chúng sanh cũng chẳng biết được.
Đạo Bồ Tát Hãi Trụ tu từ 01/01/1961 đến năm 1970. Là Thiền
và Định không ngủ tròn chín năm, mỗi đêm tám giờ Thiền.
Mỗi thời Pháp phóng ra cả hàng tiểu kiếp, nuôi dưỡng chúng
sanh và nơi đạo, chỉ giải phương thức tu hành, làm cho các giới chúng sanh đặng
ngộ đạo lần về, mà tu theo để đặng giải thoát sanh tử luân hồi.
(hình 23) chuyển pháp luân thanh tịnh
Đạo thần thông của đấng Phật làm cho cả thảy chúng sanh đặng
đầy đủ Pháp luân thanh tịnh của Như Lai. Làm sáng sạch các tâm, căn mạng của
chúng sanh.
Bồ Tát chuyển pháp luân, xem các Pháp bay vòng quanh châu
thân liên tục không ngừng – Bất Thối.
Vòng Pháp bảo này bay chuyển luôn không có giờ giấc, cứ
xoay mãi như vậy.
Quả vô lậu của Bồ Tát khi tu đắc Pháp lớn, kết làm một khối
mà xoay chuyển, ta ví như trái cầu, hay trái đất xoay quanh.
Thân tu Phật đạo xem ở đây mà hành, có thể thành công.
Thời Pháp Hoa là Như Lai chuyển đại Pháp ra tế độ cho chúng
sanh cả mười phương cõi, sau nói Pháp âm chỉ cho chúng sanh biết đường hướng
gieo duyên tu hành và thọ ký cho các đệ tử những người tu đắc đạo và kiểm điểm
lại mỗi thời chuyển Pháp xem độ được bao nhiêu chúng sanh. Số yếu cho vào Thiên
Sắc như quả Bất Lai A Na Hàm, quả vô sanh vào cõi Sắc Cứu Cánh Niết Bàn…
Các loại này là ở các cõi Thiên đắc nhiều, còn trần gian
thì cho các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni - vào Bất Lai hay số ít vào A La Hán đạo, ít
có ai đắc quả Duyên Giác. Mặc dù các tăng tu thiền định huệ cũng không vào được
quả Bích Chi Phật, nếu hàng Bích Chi Phật vào trần tu vào Bồ Tát
cũng rất khó đắc.
Ta thấy đức thầy Minh Đăng Quang là Bích Chi Phật vào đời
mà không vào được sơ địa Bồ Tát, còn bị quỷ ma Ba Tuần hạ bệ …
Còn số cư sĩ tại gia ngàn ức người may ra được một - hai
người vào đạo Thanh Văn là cao, như số đây phải là quả A Na Hàm vào đời, chớ
chư thiên thì không được vậy. Xem đây mà so sánh để cầu đạo tu hành ở trần là
khó tu…
Suy xét… Thăm dò, suy nghĩ cho cạn lẽ là tu thế nào cho
chúng ma quỷ không biết được khi đắc Pháp lớn, mới đủ sức đối địch với chúng …
PHẢI TU KÍN ĐÁO, đắp y mang bát là bị trúng độc của chúng vậy.
Mỗi thời chuyển Pháp Hoa chỉ đạo cho chư Bồ Tát, để vào tri
kiến của Như Lai, và thọ ký cho chư Bồ Tát từ thấp lên cao thành chánh đẳng
chánh giác, còn các hàng Thanh Văn để thọ ký vào đạo Bồ Tát…
Đó là thời Pháp Hoa của chư Phật chỉ dạy cho Bồ Tát vậy –
Tu cách nào cho đủ số Bồ Tát mới được diệt độ để lập quốc độ lưu ly thành chánh
đẳng chánh giác.
Đạo của chư Phật là đạo rốt ráo, nghĩa là tám vạn bốn ngàn
Pháp môn. Muốn thành Phật Như Lai phải đi hết các độ, mới đủ các pháp độ cho
chúng sanh. Còn chúng sanh không mấy ai kham nổi, gắng lắm là
vào quả vô sanh là cùng, sang được quả Bồ Tát cũng lâu, không dễ gì cho ta đắc
quả vị Như Lai Phật.
Ở đây nói giáo lý tu đạo, xem ai kham tu tinh tấn, nhẫn nhục,
hạ liệt mới đi sâu được vào đạo Phật, còn các món đạo đều mõng cạn đi ngoài vỏ,
không mấy ai đi sâu được vào Pháp tánh để đạt quả vô lậu, nên đạo tiểu thừa họ
chỉ tu vào hàng tiểu thánh là cùng (gọi là Phàm Thánh). Loại này còn lưu giữ
nhiều món – Danh sắc, tài lợi, vật chất, còn tích trữ cao, còn chấp vọng nhiều
…
Trong mười phương cõi hư không, chỉ có đạo của chư Phật là
bao trùm kín khắp. Các Pháp của Phật là sáng lớn bao cả mười phương cõi, chư Phật
Pháp lớn mà dùng kim Pháp để trang nghiêm Pháp thân, do đó mà không hề bị mòn
hao, nên sống vô cực không bị rời rã. Các món đạo khác thì bị vụn vặn, vì Pháp
không chơn sạch và mỏng chóng hoại. Ai khéo biết mà tu theo đạo Phật mới có triển
vọng cho vị lai.
CHÚNG SANH MUỐN VỀ PHẬT
Lời nói ra cứu đời, cho chúng sanh biết lối đi, sửa soạn
nơi bản thân, suy xét cho thiệt kỷ.
Tính việc làm thường nhật của hiện đời sanh sống, đem so
sánh các việc. Việc nào nên làm, việc nào không làm được. Đó là tạo cái chơn.
Nên dứt các việc ác, đừng đem thân dẫn vào chỗ tối đen. Nắng
vào trong việc trong sáng, nên thôi dứt lánh xa các việc ác tối tăm khổ não.
Suy xét ở bản thân, không dính vào việc ác. Đó là duy trì bản
thân trong sạch.
Suy xét và giữ gìn khẩu nghiệp, lời nói. Rất chơn thiệt sạch
sẽ. Lời nói rất ít, giữ khẩu nghiệp cho trong suốt.
Ý trí - suy xét việc
làm bản thân của lời nói và các sự nghĩ tưởng, dức các vọng tưởng để an trụ bản
thân. Thực tập cho quen bổn tánh, làm cho tánh Phật khởi dần mở cửa đạo, làm được
các điều lành, pháp trụ thêm tăng trưởng, dần dần thân đặng an trụ, xem hồi
pháp lành.
Dứt các sự tham dục, thà chịu chết chớ có tham dục, đó là
điểm tối kỵ để dứt các sanh tử, dứt lìa ngục tối tăm, Phật đạo đi trong thuần
thiện, nếu ai sống mà làm được các điều thiện, cho đủ trăm tuổi đời.
Không tham dục
Không sân giận oán thù
Không lừa lọc dối trá
Không sát giết, ăn co đánh đập, hành hung cướp bóc, phá
tan.
Không say sưa nóng sốt.
Không gần kẻ làm ác.
Dù nói hay làm điều phải trọn gìn giữ, lừa đặng các độc đó
rồi mới nhẫn đi vào định huệ, lấy trí dũng mà phân xử làm đạo giải thoát cho bản
thân, dứt sự ràng rịn phiền não, sầu lo của ba độc tham sân si khổ não cao, chấp
là hèn tệ.
Nếu lìa được các tối này, đó là vào nhứt thừa của Phật quả
vô sanh, đặng xa lìa sanh tử, dứt các sự khổ não, xa lìa ngục tam giới, mà trụ
về Sắc Cứu Cánh. Tu tịnh của đạo giới là trong mỗi đêm sáu giờ tịnh quán và định
tịnh, và niệm giải, dành một giờ sám tâm, cởi mở các tối tăm. Nên biết rằng sắc
thân phàm tục cũng 4 đại làm thân : Đất, nước, lửa, gió - vậy vì dứt thân tối
mà thâu vào ánh sáng. Trong mỗi buổi sáng nên soi vào ánh sáng lớn gọi là Thị Đại
Minh, chăm chú rút tỉa ánh sáng của mặt trời để rọi vào Tâm tối của mình … làm
cho thân và tâm đều sạch các lậu vô minh.
Các hoặc đắng tiêu tan, hồn linh dứt mây đen, Pháp bao thân
đặng sáng sạch, của phần hồn diệt được 4 đại thì đặng 4 thánh 4 quả, có đặng xe
dê, có phước điền rộng, đủ Pháp nuôi thân ở về chơn tâm không còn phải tìm cầu
chạy đi tìm của vật, ăn mặc.
Đạo này ở 4 đế : Đất, nước, lửa, gió do vô minh tạo ra gọi
là khổ, tập diệt hóa ra tham, sân, si là ba độc, 3 nghiệp chướng đưa hồn vào ngục
tối. Nên phải tự chế bản thân, không để lọt các bụi nhơ vào trong ta. Các Pháp
có không, sạch dơ ở nơi ta cả, do đó phải tự chế mà đi vào các Pháp đạt đạo quả
vô lậu mới gọi là có vốn, sống lâu không còn sầu lo, dứt tất cả trược dơ.
Đạo chánh đẳng chánh giác của chư Phật đều đưa một niềm
tin, gieo duyên lành kết vào Phật đạo …
Nơi cõi này có lẫn lộn các đạo đến trụ cả trong đây, cũng cần
phải học theo để duy trì theo Pháp này đổi ra thanh tịnh đạo. Có nhiều chúng
sanh ở trong Pháp Phật hóa sanh mà bèn quên cội gốc của mình, bỏ chạy lăng
xăng, bị rơi rớt vào hàng ma quỷ, thật là đáng thương. Nên vì đó mà ta phải hy
sanh, đưa tay đón anh em quyến thuộc, nhiều người bèn không tin nhận bỏ chạy …
Rồi chẳng biết họ sẽ đi vào đâu. Ta dùng phương tiện giải nói, chỉ giải họ vẫn
không đủ tin. Mà số linh hồn bên Ziêsu lại cầu xin ta chỉ đạo, họ rất tôn sùng,
cung kính thọ trì. Kỷ Tỵ sang năm Canh Ngọ, các cha bên âm thường đến cầu xin
ta sang độ cho họ ..
Đây là sự báo thâm ân của nhiều đời đã trụ nơi cõi trời Phạm
Thiên Vương, từ 90 kiếp trở lại đây. Nay ở đời hiện tại đặng sự giúp sức của Đức
Ông mà tạo đặng thiên quốc để trợ duyên cho quyến thuộc về tu. Cõi trời Nam
Thiên đã đặng bang ra làm 3 cõi cho 3 lớp để thọ đạo. Một Tiểu Thiên cho nhơn
và A Tu La, Trung Thiên cho hàng Thánh Thanh Văn trụ, Đại Thiên cho hàng Bồ Tát
trụ. Cõi Đại Nam Thiên số này có phần Quan Âm, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, các
quyến thuộc của 3 loại Bồ Tát thuộc Pháp A Di Đà đến trụ về cõi Nam Thiên này.
Sự tiếp dẫn của đức A Di Đà là như đây. Anh chị em cô bác thuộc Pháp này, phải
nên ghi nhớ nguồn cội để trở về, khỏi phải đi ở nhờ ở đậu.
Ai tin hay không tin thì mãn kiếp số cũng sẽ biết, còn ai cầu
tịnh độ về cõi tây phương ở đây không liên lụy, nhứt là kẻ trược mạng căn, cống
cao, thì họ không có chỗ đi, để thử xem …
Đạo Nam Thiên
Tu vào hàng thánh vô sanh, bắt nguồn từ đó không đi ngoài lề
giới luật của Thánh đạo.
Diệt trừ buông bỏ rốt ráo các độc là 3 độc : Tham dục, sân
dục, si dục.
3 cao mạng dục, chấp dục, để đứt các quả điên đảo, ban chấp
dục, phá mê, phá bủn xỉn kiêu tứ, hống hách kinh mạn, thù oán, đều trừ bỏ dứt 3
độc.
Nội trong đây mà dứt lìa đặng thì đặng quả vô lậu không xa.
Tu Phật phải coi ở đây mà hành theo, sau đủ đạo này sẽ đi vào Ngũ Thông, rồi
sang Lục Thông, vào hàng Thánh Bồ Tát mà trụ về cõi hư không .
Ở đây ta nói thật, ai chịu tu hành theo thì không uổng vậy.
Các loại chúng sanh không ai không muốn an lạc sống lâu, họ đi cũng dè dặt,
thăm dò nhiều người, bị lợi dụng lừa gạt mà không giúp họ được phần nào, Kẻ mù
dắt kẻ đui, đều bị té ngã, đó là nghiệp, ma quỉ dối trá, lừa lọc, lợi dụng mà lừa
gạt. Tội đó cũng quá cao, không giúp người, người khác giúp còn ton vót ngăn
gián, bảo đừng giúp nó. Đó là tội khi mạn, thù ghét, không đáng được độ.
Và lòng nó bỏn xẻn hẹp hòi, bỏ ra một muốn thâu vô trăm, là
nghiệp tham ngút cao, chết đi đọa vào làm quỉ không đầu, gọi là ngạ quỉ, hay quỉ
dạ xoa, hay cưu bàn trà, thân đen mắt đỏ, răng nanh dài nhọn, mặt đen hóp, thân
gầy, tóc phủ xuống như ma đói.
Nói những người tội là vô số trọng tội ở trong ngục, chúng
hết công đức, hồn không còn hột Pháp nào bảo trợ cho thân. Chúng đói khổ, kêu
la gầm thét, lâu đời ở trong ngục tối, thứ lớn hiếp loại nhỏ, cắn xé ăn thịt
nhau, máu me hôi thúi bất tịnh chảy tràn. Các khổ nói chẳng hết được.
Nên vì thế mà nói ra ở đây, có chúng sanh nào tin vào mà lo
tránh né để đặng xa lìa các ngục. Chưa nói vào các loại ở thập ngục, các loại
khổ hơn gấp ngàn lần. Bởi thế nên phải chăm lo bồi hoàn công đức cho nhiều, bồi
đắp vào chỗ hao hụt làm cho cảnh tâm sáng sủa bằng thẳng, sạch sẽ, tâm cảnh sạch.
Tướng mạng sạch, căn cơ sạch, các Pháp sạch. Bồi đắp công đức cho cao. Nền tảng
đế tâm toàn chơn thì quả vị Phật Pháp vững vàn. Dần dần đạo quả trở thành kim
cang đầy đủ tướng tốt, gồm 32 tướng, 8 đạo giải thoát, có lục thông, 3 Pháp
thân sáng như điện, gọi là 3 món minh, đủ 6 Ba La Mật, 10 trí huệ, 4 trí Pháp
tánh dứt lậu, đi đến 80 vẻ đẹp.
Đủ đạo Bồ Tát có xe trâu kéo dạo chơi cả 10 phương. Qua đây
thần đế siêu về hư không, gọi là Thánh Đế. Lúc này di sơn đảo hải, chuyển đạo về
lập Thiên quốc của Bồ Tát đạo, việc này không ai nào biết vì sao lại có trời,
ai làm ra cõi đó…
Đạo lực thần thông ai nào rõ.
Phước trí diệu nghiêm tỏ đạo tông.
Phật đạo cao siêu dùng tế độ.
Phương tiện chỉ bày phải thành công.
Pháp thanh vô úy dạo mười phương.
Diệt khổ tiêu ma giảm ngục hình.
CHÚNG SANH CÒN HAM ƯA.
Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Loại này của sáu căn thân
tạo, mỗi loại đều có nhiều món khác nhau.
Sắc : Thuộc về mắt, mắt nhìn thấy đủ loại của vật, tiền bạc,
châu báu, vàng ngọc, của vật đầy tràn chất lượng cao bằng núi.
Thinh : Tai nghe tiếng lời, tảo tần, mắt ưa theo, cũng rất
là nhiều món, người chỉ làm việc này, người chỉ tạo việc kia, do tai nghe được
mà tạo,
Hương : Thuộc mũi, thì nào là chất thơm, hương hoa, dầu
thơm, bao nhiêu thứ mùi.
Vị : Do lưỡi ham cay, chua, chát, mặn, nồng, đắng, ngọt, bùi…
Xúc : Về va chạm của thân mang vác, gánh gồng, cuốc cày,
các của vật thâu vô, phát ra cũng do hai tay khuân vác…vân vân
Pháp : Thuộc ý suy nghĩ, cả quyết duyên về cho căn tạo, so
sánh, dụng mưu khôn, chước khéo để tạo ra cho nhiều…vân vân
Không phải một lúc, mà trãi qua lâu kiếp đời đời cấu tạo,
chất lượng phải cao bằng trăm ngàn trái núi cũng chưa hết số lượng tạo vật của
chúng sanh .
Bao nhiêu vốn liếng tốt mà chúng sanh bỏ vào vò nát mà bỏ
đi hết ráo pháp tốt, khi tâm nhả ra rồi biếng ra rác, rồi bỏ đi. Nghèo là chúng
sanh ngu dại, do chúng sanh ưa món này, tạo thành đổi ra món kia.
(Loại khác vân vân… chỉ một phát là sáu bảy món sai khác. Bởi
chúng sanh điên đảo mà sanh ra tham lam thì diệt, diệt rồi sanh, cứ như thế mà quay
cuồng trong sanh tử. Của vật sanh thì tướng mạng sanh, của vật diệt thì tướng mạng
diệt)
Diệt hết thì chết, cứ suy ra mà biết tại vì sao? Lại có sống
có chết, xem đây để nhận lấy.
Tu căn
Trụ Thân trong sạch
Trụ Khẩu trong sạch
Trụ Ý trong sạch
Tam nghiệp trừ các lậu
Thân trong suốt một màu
Dưới trên đều thanh tịnh
Dứt trừ các trược lậu
Khẩu – tiếng lời nhuần Pháp
Dứt các tiếng dơ xấu
Pháp thanh tịnh một mầu
Thông suốt mười phương cõi.
Ý thanh tịnh dứt các vọng chấp
Lìa các cấu nhiễm điên đảo
Diệt tắt tham dục tiêu các độc
Suy xét thanh tịnh các pháp chơn như
Xuất phát từ gốc cội nơi thần đế
Băng qua cả mười phương
Tứ duyên qua các cõi chúng sanh
Thông bạch không ngằn mé.
Tam nghiệp tịnh duyên về
Trợ lực căn sáng sạch
Nhãn căn thấy cả Tam Thiên
Tai nghe đủ thứ tiếng
Của tất cả chúng sanh
Qua cả cõi Chư Thiên
Không tiếng gì không biết
Mũi trong sạch nghe các mùi
Của trên ba cõi trời.
Dưới đến ngục A Tỳ - cũng đều nghe biết.
Căn miệng nói ra tiếng Pháp sâu mầu
Nơi nơi ai cũng nghe ưa,
Các Chư Thiên, các Thần đều đến xin nghe – Đó là khẩu thanh
tịnh trong sạch tiếng Pháp thanh tịnh.
Thân Căn
Thân căn thanh tịnh soi cả cõi Tam Thiên, núi Thiết Vi, núi
Tu Di, các chúng sanh sống chết đều hiện rõ trong thân.
Căn Ý
Căn ý thanh tịnh căn ý suy xét. Nói ra một câu tiếng tăm
vang ra qua đi cả mười phương.
Nói một câu qua một tháng đến một năm, đó là ý căn thanh tịnh
thông suốt tất cả các Pháp.
Người tu Phật cần kham duy trì gìn giữ thân căn, lục căn,
lo lau lọc như ta gìn giữ con người của nhẵn căn.
Tam nghiệp thanh tịnh, lục căn sáng sạch thấy biết thông
vào các Pháp chơn đế, tâm cơ trong suốt bay lên qua khỏi các ngục trụ về hư
không, đặng xa lìa các chổ tối tăm, khổ não. Đến đặng công đức này mới đi vào Bồ
Tát đạo mà trụ về Pháp Đại Thừa .
Đây viết ngắn gọn để suy xét, kham thọ tinh tấn không thối
lui. Phải thay đổi “nghề” nghiệp, trọn không hanh nghề ác như :
Chăn nuôi thú vật, mèo chó, heo gà, trâu bò, dê ngựa. Tránh
xa không gần gũi giới tạo nghiệp ác. Chỉ trồng tỉa lấy hột để nuôi thân mà hành
đạo của mình, việc này ai cũng có thể làm được cả.
Chúng sanh được nghe Phật trong thời chuyển các Pháp.
Chuyển pháp luân hóa độ
Pháp Như Lai chuyển ra
Bay qua mười phương cõi
Làm thông bạch các cõi
Chúng sanh trong cõi đó
Đều dứt cả các lậu
Mà được đạo quả lớn
Đó là nhờ Pháp Hoa của các Đức Như Lai
Phật vì chúng diễn bày
Làm cho chúng tỏ ngộ
Để đi vào Phật đạo,
Dứt sanh tử luân hồi
Dạy các hàng Bồ Tát
Nghiêm trì giử Phật Pháp
Mà chuyển ra các Pháp
Để tế độ chúng sanh
Chuyển pháp luân bất thối.
Và chuyển pháp luân thanh tịnh
Sâu vào cõi địa ngục
Để cứu khổ chúng sanh.
Mỗi thời Pháp chuyển ra
Lâu gồm nhiều tiểu kiếp
Còn chổ tiếp về sau
Dành cho chư Bồ Tát
Kham diệt để độ chúng
Cho cõi đất mát mẻ
Các tướng mang căn củ
Tiêu trừ tất cả lậu
Để trụ đạo nhất Thừa
Vào hàng thánh thanh văn
Suy xét đại tâm cơ, phải làm cho sáng sạch
Thông hết các rằng rịt
Chúng mới đặng trở về
Mà trụ vào đất Thánh.
Các đệ tử của Phật, đi theo gương của Phật mà chăm lo diệt
đạo, rồi chỉ dạy chúng sanh kham tu và hạ liệt, lìa các chấp có không, để ngăn
các ngành khổ, không cho lậu xuất phát.
Phật chuyển Pháp nhứt thừa để tế độ vạn loại. Mỗi thời Phật
ra đời đều vì các chúng sanh mà chuyển Pháp Hoa lớn. Có chúng sanh đại phước mới
đặng gặp các Pháp của chư Phật ra đời.
Ví như hoa Linh Thoại, muôn kiếp mới trổ bông – Như Lai
chuyển Pháp sang gội rửa cho chúng sanh, ví như vầng mây lớn làm mưa lớn xối xả,
cho tất cả đất trời chúng sanh đều thấm mát, không còn chổ khô khao, người người
lớn tốt thân sáng đẹp tinh vi, hiền diệu đủ nết na, suy lường còn một ý, hết vọng
tưởng đắm mê dứt các mầm ân ái, không còn thức tham dục và cũng không đói khát.
Thân sạch như bửu châu, như cây khô được nước thấm mát trở lại, luôn kết trái
quả lớn tốt.
Pháp xối xuống các cõi nước trên Thiên làm cho các chúng trời
đặng quả đạo vô lậu.
Có lắm các cõi trời, lâu đạo phước tổn giảm, bị rơi rớt xuống
ngục đọa lạc cũng lâu đời, do đó chúng Thiên Vương tham khảo hội hợp nhau mà
đem hương hoa về cung điện của trời để cúng dường đức Phật, xin Phật chuyển
pháp luân để cứu độ chúng sanh trên Thiên chúng.
Như Lai nói Pháp xong, rồi chuyển Pháp Hoa đi một vạn tám
ngàn cõi cho đệ tử và chư đại Bồ Tát để nhận các công đức của Như Lai, và thực
hành Phật đạo – hành theo Pháp Đại Thừa mà chỉ giáo khuyên tu cho các hàng
chúng sanh qui theo đại đạo. Và chỉ Pháp đại tạng lưu giữ chánh Pháp. Ví như
cành cây nhỏ gìn giử Pháp ở lâu cho chúng sanh tươi mát, dứt tất cả các khổ là
nhờ nơi chánh Pháp .
Từ vô thỉ trở lại, chúng sanh đều nhờ Phật chuyển vô lượng
đại Pháp mà tế độ chúng sanh. Như Pháp Đại Thông Trí Thắng chuyển Pháp độ mười
phương cho các cõi Chư Thiên, diệt tắt các mầm tối. Các chúng trời thành quả đạo
vô sanh số đông như cát sông Hằng.
Thời hai vạn đời Oai Âm Vương, Như Lai cũng chuyển các đại
Pháp hai vạn lần mà tế độ chúng sanh. Đời Minh Đăng Vương cũng chuyển hai vạn lần
ra độ vân vân…
Ở cõi Ta Bà có Phật Tỳ Bà Thi, chúng sanh thọ tám vạn tuổi,
chuyển ba thời Pháp Hoa, và thọ ký mấy chục ngàn đệ tử vào đạo Bồ Đề thành
chánh giác.
Qua sau đó lại có Phật Thi Khí, chúng sanh sống thọ bảy vạn
tuổi ra đời cũng chuyển ba thời Pháp Hoa độ cõi Ta Bà này.
Sau lại có Phật Tỳ Xá Bà ra độ chúng sanh sống sáu vạn tuổi,
chuyển hai lần Pháp Hoa ra độ.
Phật kia nhập diệt, lại có Phật Câu Lưu Tôn ra đời, chuyển
một lần Pháp Hoa chúng sanh sống năm vạn tuổi.
Kế đến lại có Phật Câu Na Hàm ra đời, chúng sanh sống bốn vạn
tuổi, chuyển một lần Pháp Hoa độ chúng sanh. Thời này chúng sanh còn sống bốn vạn
tuổi.
Qua đời sau lại có Phật Ca Diếp Mâu Ni ra đời, chuyển một lần
Pháp Hoa ra độ chúng sanh, tuổi thọ ở đạo Phật Ca Diếp chúng sanh sống hai vạn
tuổi.
Sang qua đời Phật đó nhập diệt lại có Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni ra đời, chuyển một thời Pháp Hoa có một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử tham dự,
và thọ ký đạo cho năm trăm vị đệ tử thành đạo A La Hán. Trong đại hội Pháp Hoa
có tám vạn đại Bồ Tát tham dự, các vị Thiên Vương và Thiên Chúng đến câu hội
đông đến muôn ức người tham dự, đến để nghe Pháp Hoa, số chúng sanh đắc quả
cũng nhiều, nhờ trong mỗi thời Pháp chuyển ra của Như Lai nói mỗi dụ của các đại
Bồ Tát tu hành theo Pháp Hoa mà chứng đạo, mà tùy hỷ chứng đắc không hay biết.
Thời Phật Thích Ca thì Pháp đã cạng mỏng nên chúng sanh sống
còn một trăm tuổi – 100 tuổi thọ.
Phật nói sau khi ta nhập diệt quá năm trăm năm sau có thể
không còn ai còn lại công đức tu hành Phật đạo, đi tìm năm tháng dài cũng không
còn gặp được người tu Phật đạo, cho đến người thọ trì Kinh cũng rất ít có. Nên
ngài nói là còn tại thế - nói Pháp Hoa chúng còn thù ghét – oán trách, huống gì
khi ta diệt độ thì làm sao còn ai dám trì tụng Pháp Hoa.
Bởi Pháp Hoa là đại Pháp của Như Lai để chỉ dạy cho Bồ Tát,
còn chúng thấp căn cơ thì không tin nhận được. Chúng sanh sống nhờ Pháp Hoa
nuôi dưỡng nên ai cũng không tin nhận thì Pháp rút về, người đó sẽ bị khô héo
chết dần, không còn Pháp bảo thân. Người khôn lanh ngồi lì xin cho được nghe,
thì đặng Pháp nhập đầy thân rất là vui mát không thể nói hết … Pháp Hoa là thâm
sâu – khó ai biết đến được.
Phật Pháp từng chỉ dạy cho các hàng Phật tử nên nhẫn nhục,
từ bi hạ liệt và lễ lạy. Như Thường Bất Khinh Bồ Tát thuở quá khứ hằng lễ lạy cầu
xin cho mọi người đặng thành Phật, mà nói lên rằng : Tôi chẳng dám khinh quý
ngài, quý ngài đều làm Phật – cứ lễ lạy bất cứ ai ngài cũng chấp tay lạy, mà cầu
cho mọi người. (nên có tên Bất Khinh)
Đó là hạnh của chư Phật hạ liệt cầu cho chúng để mong thành
Phật đạo. Thường Bất Khinh nhờ nghe Pháp Hoa mà sống lại, đời sau đây lúc ngài
đang làm vua, bỏ ngôi vua đánh trống ra bốn phương : Ai có kinh Đại Thừa thuận
cho ta học, ta sẽ làm tôi giúp việc.
Có vị tiên ông nói ta có Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đại Vương
không trái ý ta sẽ cho ông học. Vua rất mừng mà theo hầu tiên ông, hầu hạ một
ngàn năm, nay thành chánh giác.
Nhờ vị tiên ông cho kinh Pháp Hoa Đại Thừa mà đắc vô lượng
Pháp, 3 Pháp thân sáng, đến lục thần thông, 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. đặng
Pháp lớn để trang nghiêm Pháp thân, thần trời đều qui phụng, lể lạy và kính ngưỡng,
đặng 5 phần nhãn quang, đặng tam muội Bồ Đề, có 6 Ba La Mật đạo, 18 Pháp bất cọng,
vô số Đà La Ni, 4 tướng nhiếp Pháp – thành đại Pháp Vương, có đại trí kiến.
Trăm phương tướng sang đẹp đều nhờ ông Đề Bà Đạt Đa tiên ông cả.
Trong kinh Pháp Phật nói đều là Pháp giải thoát. Không có
hai ba nào khác, chỉ dùng Pháp Nhất Thừa mà tế độ chúng sanh, giải lý nói bốn đế
để dứt các ngằn khổ. Mỗi thời nói ra một dụ đếu đắc quả cho 6 đến 8 vạn Bồ Tát
và A La Hán đặng quả vô sanh pháp nhẫn, và đặng thêm trí huệ.
Như Lai nói vì chúng sanh trược quá nhiều, nên phải chia
làm ba thừa giáo – thanh văn – duyên giác – Bồ Tát, vì đường xa nhiều chổ hiểm,
chúng muốn bỏ cuộc, do đó mà phải dụ để lựa chổ cho chúng thọ.
1/ Như Lai nói trong kinh nầy cho mỗi dụ hoặc Như Lai hoặc
Bồ Tát tu đắc lớn – đều là tu Pháp Hoa mà thắng diệu. Như Lai tu Kinh Pháp Hoa
mà thành chánh đẳng chánh giác nhờ ông Đề Bà Đạt Đa cho kinh.
2/ Thường Bất Khinh nhờ thâu 2 vạn lần Pháp Hoa được sống lại,
tu theo kinh đắc Pháp lớn thêm.
3/ Diệu Âm Bồ Tát nói Pháp Hoa và trì Pháp Hoa mà đặng rất
nhiều môn Tam Muội, đắc Nhất Thiết Trí Tam Muội.
4/ Hỷ Kiến Bồ Tát tu Pháp Hoa đặng Nhứt Thiết Sắc Thân Tam
Muội nên đốt thân cúng dường Kinh Pháp Hoa.
5/ 16 vị Vương tử, con của đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai
tu Pháp Hoa đều thành Phật Như Lai. Văn Thù Sư Lợi tu Pháp Hoa thành Pháp Vương
Tử, đại Bồ Tát dạy cho các đệ tử tu theo – vị nào cũng thành Bồ Tát, ngồi tòa
sen ngàn cánh.
Văn Thù Sư Lợi dạy Pháp Hoa cho con gái Long Vương Tỳ Kiệt
La thành Phật trong hiện thời.
Tu Pháp Hoa của Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn tu Pháp Hoa mà đắc
Giải Nhứt Thiết Sắc Thân Tam Muội, tức là Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát.
Như Lai nói công đức tùy hỷ của người tu Pháp Hoa, ví ông
trưởng giả giàu lớn nuôi 4 loại chúng sanh cả 60 vạn cõi hết 80 năm và chỉ đạo
tu hành, số chúng sanh nhiều vô lượng. Công đức không bằng người trì Kinh Pháp
Hoa một bài, một kệ một câu.
Ví như người có số vàng ngọc quí đầy cả tam Đại Thiên đem
đi cúng dường công đức này, cũng không bằng công đức của người trì Kinh Pháp
Hoa. Vì số vàng bạc đó ăn dần cũng hết, còn Kinh Pháp Hoa thì không hết, mà còn
nhiều hơn. Vì tu theo kinh mới thành đạo, vì tu thông thường chỉ có nếp sống,
có ăn mà đạo thì khó đến được.
Đạo Tiểu Thừa tu lấy phước mà giành của ăn vật mặc, chớ
không biết Phật Pháp là gì.
Các Thiên Quốc, chư Thiên Vương biết được đạo Phật mà không
biết đường hướng tu hành ra sao.
Ngoại đạo họ làm phước thiện nên họ giành của cải cho đời
sau. Số mười người được 3 còn mất.
Các đạo trì thọ kinh Pháp cần phải biết ý mầu mà thọ trì bổn
kinh làm cho đạo chóng thành tựu để đắc đạo mà trụ về Đại Thừa.
A/ Phải nhận Kinh Pháp Hoa là tột hơn cả, kinh này bao gồm
cả thảy các Pháp (phi Pháp bất thành Phật), tất cả sự sống còn là nhờ ở nơi các
Pháp cả, đấng nào được Pháp lớn nhứt, phải biết rằng chỉ có đấng Phật là có đại
Pháp, các đạo không có đạo nào trên được đạo Phật, mà đạo Phật là ở nơi Kinh
Pháp Hoa là số một vậy.
Muốn được kinh này:
1/ Phải được mười phương chư Phật hộ niệm.
2/ Là được tất cả phần công đức.
3/ Là đặng vào trong chánh định.
4/ Là phát tâm độ cho cả thảy chúng sanh.
Đặng bốn phần này mới đặng Kinh Pháp Hoa thọ vế tâm, gọi là
kinh vô vi, chớ không phải ở vế trần gian. Nói ở đây ai xem cũng coi là nhàm,
không có bổ ích.
Thiệt ra, đấng Phật , khi một đức Phật thành đạo là sự tu
vào đến cực độ mới được nói ra kinh này. Kinh này sâu vào Pháp Trí Kiến (Thiết
chủng trí), có đặng Pháp Trí Kiến mới thấy rỏ suốt thấu vô tận kiếp từ vô thỉ
và vị lai (hỏi Phật Như Lai trụ và thọ Pháp nào? Nên nói rằng : Như Lai thọ vào
Pháp Trí Kiến ngoài ra không thọ ở Pháp nào. Cho đến Tam Muội Nhứt Thiết Trí và
Đà La Ni cũng không dùng đến.
Pháp Tam Muội cũng
có 3.600 món, Đà La Ni cũng vậy. Các Pháp của chư Phật tu và khai thác rất đầy
đủ, các chất lượng từ đầu chí cuối ngài nắm trọn, bao nhiêu món Pháp đều ở Kinh
Pháp Hoa chứa đủ cả.
Kinh Pháp Hoa duyên ra toàn Pháp loại cao, thấy nghe có các
vị Phật va Bồ Tát nào lớn có đại danh đắc nhiều Pháp lớn tột. Ta thấy đại Bồ
Tát Diệu Âm do trì Pháp Hoa mà đặng sơ Nhứt Thiết Thân Tam Muội gần bằng Phật
Như Lai và Đà La Ni có nhiều tòa sen kim cang.
Như Hỷ Kiến Bồ Tát đặng Nhứt Thiết Pháp Thân Tam Muội mà đốt
thân Tam Muội để cúng dường Kinh Pháp Hoa cháy lâu đến 1.200 năm mới hết. Kế đến
lại đốt hai cánh tay để cúng dường xá lợi của Phật cháy hết 7.200 năm, sau đó mới
hết.
Như ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử tu theo Pháp Hoa mà đặng
tòa sen ngàn cánh, các đệ tử của ngài tu từ quả thanh văn mà đắc đại Bồ Tát,
cũng ngồi tòa sen cao.
Đức Thích Ca Như Lai khi còn ở Pháp Bồ Tát ra đời làm vua,
bỏ ngôi vua mà tìm Kinh Pháp Hoa, do tiên ông thuận chỉ học, do đó ngài lại
thành Phật cho đời – Tăng.
Thích Ca Mâu Ni tu thành thân Phật, rồi sang Bồ Tát thành
Phật, đến hàng tăng thành Phật cho đến Pháp tàn.
Thời ngài thành Phật lần đầu chúng sanh đều sống lâu đến mấy
vạn tuổi. Sang thời kỳ tăng, ngài thành Phật thì Pháp đã tàn.
Như đức Tỳ Bà Thi độ cho cõi Ta Bà, chúng sanh sống lâu 8 vạn
tuổi. trãi qua 6 đời Phật đến chót là Phật Ca Diếp, chúng sanh sống 2 vạn tuổi.
Sau qua đời Thích Ca Mâu Ni thì Pháp của Phật Ca Diếp lại ra đời độ cho chúng
sanh sẽ sống từ 5 đến 10 ngàn tuổi vì giành chổ cho Thích Ca Mâu Ni lập đạo
thâu linh về quyến thuộc của ngài nên đức A Di Đà nhường chổ. Pháp đức Thích Ca
Mâu Ni không chuyển ra độ lâu mà chỉ cho 3000 năm – mỗi chúng sanh có 100 tuổi
thọ, đến nay chúng sanh còn 70 tuổi thọ. Chớ mỗi đức Phật ra đời kém nhứt cũng
độ đến 12 tiểu kiếp – tức là 50 triệu năm, chớ không phải 3 ngàn năm có thấm
thía gì đâu. Từ cổ lai đến hiện tại chỉ có lần trót này đức Thích Ca độ 3 ngàn
năm mà thôi. Phía đạo của đức Thích Ca về sau chỉ còn có 10 tuổi thọ, còn Pháp
A Di Đà sẽ tăng từ 5 đến 10 ngàn tuổi thọ - tiến lên 8 vạn tuổi mới rút về Tây
Phương, đó là Pháp A Di Đà hồi, cõi Ta Bà cho đức Di Lặc quản lý.
Trong Kinh Pháp Hoa của chư Phật
A/ Diễn Pháp nghĩa – là nói Pháp cho chúng sanh nghe.
B/ Chuyển Pháp Luân thanh tịnh qua 10 phương (bay ra từ chặn
mày)
Thọ ký cho chư Bồ Tát, chỉ đạo tứ đế và 12 nhân duyên cho Tỳ
Kheo tu vào thanh văn duyên giác, nói Pháp 6 Ba La Mật cho Bồ Tát tu theo vào lục
thần thông và trí kiến của Phật Nhứt Thiết Trí.
Như Lai nói cho hàng hạ căn qui theo để vào đạo tứ đế
- sang 12 nhân duyên, loại này duy trì
được mà kính tin bất thối đạo, huống chi chúng sanh tại gia cư sĩ cũng thối, và
hàng xuất gia cũng thối, chớ không có ai được trọn từ đầu chí cuối, đó là do
không trọn giữ công đức mà phải thối đạo, là bỏ Pháp, bỏ Pháp thì thọ địa ngục
– việc này quá rỏ. Pháp là nhứt, không gì so sánh đặng.
Chơn tu Phật Pháp – chay, giỏi bố thí nhẫn nhục để làm căn
bản, rồi sau mới đi vào thiền định (trí huệ), vào đề ngồi kiết già – giữ tịnh
giới, vào thiền – chuyển Pháp, diệt Pháp mỗi đêm 4 giờ. Quan sát các Pháp, quán
cảnh và nhiếp tâm giành cho 4 hướng nhiếp Pháp vô vi. Vào đề, vào vô vi đạo – gọi
là tu giải thoát – tu “Huệ”.
Huyệt đạo được mở - chuyển Pháp thông đạt qua đãnh, về diễn
đạo tứ đại được chuyển ra kết Pháp thành Pháp đăng, và bánh xe tứ thánh đạo.
Đây nói vô vi Phật Pháp, chớ ở đây không nói vế bên trần,
trần không có dính líu vô việc các Pháp vô vi đạo. Ở về phía linh hồn ta, chừng
nào thấy các hột Pháp thánh bay dạo ở cửa điển nhiều ít, chớ Pháp thân thì mỏng
không rỏ như pháp thánh. Các hột Pháp tròn sáng vùng ra bay kín cửa điển, không
khác bày ong vỡ tổ. Các hột Pháp được viên mà hiện ra thân đầy đủ căn cơ gọi là
Pháp tử. Từ lúc các Pháp được bay ra cho đến thời được viên thành, tưởng trải
qua 20 năm, 20 năm thì trụ thân mới đặng thọ ký Bồ Tát Bát địa đạo. Tu như đây
phải trụ tịnh mỗi đêm 6 giờ, trải qua 6 năm, qua 12960 giờ (mười hai ngàn chín
trăm sáu chục giờ) đó là người đại căn và tinh tấn.
Còn loại người nghiệp nặng phải gấp đôi số này. Thí dụ có
pháp sư nào đủ đức trì tụng Kinh Pháp Hoa cho đủ số công đức, sẽ thấy được
chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên, tai cũng nghe thông đến đó, mũi và tiếng
lời nói ra cũng vang xa đến Tam Thiên và cả ngục A Tỳ cũng nghe. Sáu căn đạo đều
chơn sáng, căn thân thì trong như mặt gương soi chiếu đến núi Thiết Vi, núi Tu
Di. Các núi ấy đều hiện rỏ ở nơi thân của pháp sư. Căn ý – nói đạo vang xa, một
câu cải ra vô lượng nghĩa, có thể nói cả năm không hết…
Đây mới nói ở nhục thân cha mẹ sanh ra thôi, chưa nói ra ở
nơi Pháp thân. Dụ nói công đức của Pháp sư:
Mắt có 800 công đức,
Tai có 1200 công đức,
Mủi có 800 công đức,
Lưỡi có 1200 công đức,
Thân có 800 công đức,
Ý có 1200 công đức.
Rẻ sang công đức tùy hỷ thì như lời Phật, ngài nói “Ông đại
thí chủ nuôi 4 loại chúng sanh, số chúng sanh của 60 muôn cõi, thí chủ nuôi 80
năm và dạy đạo đắc quả cho cho chúng, đem công đức này đối chiếu với người số
50 nghe 1 bài kinh kệ, phước này hơn phước của ông đại thí chủ, chưa bằng 1 phần
10 của người nghe Pháp Hoa. Do đó định biết vế như pháp sư trì tụng trong giảng
đường thì không có công đức nào bằng được. Tất cả đều ở trong Pháp Hoa mà bao
trùm cả vô lượng cõi vào trong, mà rút gọn vào làm 1 cuốn, 1 thân Phật mà chuyển
ra qua 18.000 cõi nhân cho 10 bằng số Pháp qua 180.000 cõi ấy nhiều đến đâu mà
chưa hết 1 phần 10 của Phật thiên. Pháp chơn của Như Lai chỉ 1 bụi cũng bao che
kín cả Tam Thiên quốc, nên nói nhỏ là lớn.
Các Pháp không có lớn nhỏ, cũng không dày mỏng, cũng không
cao thấp, không sạch dơ, nên vì không có chổ để luận bàn vào các Pháp, nên Pháp
không có chổ nói, gọi là nói ra Pháp xuất ngôn, Pháp theo ra vào lời nói – theo
vào với tiếng. Còn chúng sanh thân không có Pháp thì gọi là nói suông.
Dụ mà các chư đệ tử của 1 trong số 16 vị Vương tử của đức
Phật Đại Thông Trí Thắng Như Lai từng theo học đạo của đức Phật Thích Ca Mâu Ni
từ hồi Phật đó tính lại đến đây là lâu xa kiếp vô số kể, bằng muôn a tăng kỳ kiếp,
lâu xa hơn số đó – xét như vậy thì hàng thanh văn sống cũng là vô lượng, do đó
mà chư Phật đặt mức đạo cho chúng sanh tu vào Phật thừa, bắt đầu ở quả thanh
văn mà nói Pháp tứ đế, khổ - tập - diệt - đạo, cho chứng được 4 đại, vào hàng thánh 4 quả xấp lên đến đạo duyên giác
ngũ thông, tu lấy 5 Ba La Mật loại trừ được 12 nhân duyên của các Pháp duyên đi,
trong đó có : Vô minh đứng đầu, sang danh thức, danh sắc, lục nhập xúc, thọ,
ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử và ưu bi khổ não. Diệt đầu, thì 2 đoạn diệt, 2 thì ở
đoạn, diệt 3 thì 4 đoạn, vân vân… cho đến hết.
Như vậy tu vào Phật có 3 phép tu :
1 – Tu vào tứ thánh
2 – Rồi tu vào ngũ thông
3 – Kế tu sang lục thông là Bồ Tát, là cùng tột.
Đạo Bồ Tát kể từ sơ địa Bồ Tát là Bồ Tát mới phát tâm, sang
nhị địa, cho đến 11 địa là đẳng giác Bồ Tát, gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát. Còn quả
Phật Như Lai, thì cứ số Bồ Tát có 84 vạn và thinh văn tăng 72 vạn mới có 1 vị
trong số thánh Bồ Tát làm Như Lai, ví như ông vua đứng trụ 1 cõi nước vậy.
Cho nên tu vào đạo Bồ Tát đặng thọ ký 8 bát địa Bồ Tát rồi
là cứ vậy mà sống an lạc, đó là cục đường của Phật đạo. Chổ đạo Như Lai đâu còn
pháp nào tu mà chỉ có tu vào 6 Ba La Mật thì có như :
Trì giới Ba La Mật
Bố thí Ba La Mật
Nhẫn nhục Ba La Mật
Tinh tấn Ba La Mật
Thiền định Ba La Mật
Trí huệ Ba La Mật
Là căn bản, kế theo có từ lúc = Ba La Mật, hỷ xả Ba La Mật
= là = thừa dư.
Dạo nào cũng đi đến thành – trụ - hoại – không, thì chỉ có
đạo Phật là băng qua trụ về hư không mà không bị hoại.
Khi tạo, kiến tạo đủ chất lượng mới đủ chất lượng, mới được
trụ, là đặng mức sống an vui, dần dần hao tổn mòn mục như già bịnh, kế đến hoại
là tiêu tan không còn cái gì tồn tại xót lại. cho nên mức sống của đạo nào cũng
có hạn, chớ không có thể kéo dài lâu được. Mà chỉ có đạo Phật là kéo dài lâu ra
và trí tuệ ghi nhớ từ đầu chí cuối không có thay đổi, 1 trí duyên đi mà biết nhớ
ghi nhận không quên.
Nên nói đạo là cho thọ mạng dài lâu không bị chết mất, nên
sự sống còn đấy rồi mất đấy, không hay biết. Ở trần khi còn sống biết đủ, chết
đi hồn lâu mới tỉnh, hồn cũng có chết khi tứ duyên đi bỏ hồn, thì cũng nằm ra
không còn cái biết.
SỰ TỐI QUAN TRỌNG LÀ Ở QUẢ TRI KIẾN đứng trên quả trí huệ.
Hàng thánh thì trí huệ còn kém nhỏ, sang đến Bồ Tát trí huệ
đủ lớn, cở vừa. Còn đạo Như Lai thì kết đặc sâu vào, không chổ ngằn mé đó là
trí kiến của Như Lai. Nên đức Phật ngài nói ta ra đời không một việc nào khác, mà có một mục đích để giải bày
làm cho chúng sanh tỏ ngộ đủ đức tin vào. Mới đem trí kiến của Phật để dẫn dắt
chúng vào đạo trí kiến của Phật, cho chúng sanh thành bật nhất thiết chủng trí,
vào đạo chánh đẳng chánh giác của Như Lai, nên nói đạo nhứt thừa mà san ra chia
làm ba : Thanh văn – duyên giác và Phật thừa.
Xem đây mà biết đạo huyệt
gọi là cửa của các Pháp và linh hồn. Muốn đặng sống lâu phải qua cửa đãnh.
Mỗi huyệt mỗi niệm, từ dưới đưa qua đãnh về điển.
Phần bên dưới thân chứa ấm nghiệp.
Phật đạo chỉ bày nói vô lượng kinh Pháp chúng cũng chẳng ngộ
vì chúng mê.
Nếu ai muốn an lạc thì phải tu chứng đắc, bằng không thì
cũng bị vào ngục theo chúng ma quỉ.
Ở đây chỉ đạo giải thoát cho hồn người ta để trở về hàng
thánh, có 1 không 2. Nếu bỏ lý mầu này thì tìm tu Phật rất khó, chẳng ai nào có
thể đến được, rất khó vào được huệ của Như Lai.
NGỤC TAM GIỚI
Các chúng sanh và các đạo
Lọt vào 3 ngục này thời là rất đau khổ,
Thọ buồn đau chẳng chổ siêu,
Trong sanh tử mạng thân tiêu.
Tham sân si cùng dục nhiễm
Vào điên đảo, quả báo đau.
Không đạo sư, vào hầm tối,
Bít bưng lâu, thân lạnh đói,
Thân mang trược tánh hung dữ,
Mất đức từ, đọa thêm lâu.
Chúng sanh nào siêng làm lành,
Biết hối hận, bỏ tham sân,
Chắc được phần, siêu 3 cõi,
Long tự hỏi, hỏi cớ sao!
Có sống chết sao không biết,
Tìm cho ra, hết sanh tử
Muốn đặng vậy phải ghi nhớ
Bỏ tham dục thì đặng chổ
An lạc vui không thay đổi
No đầy đủ đặng sống lâu
Tin Phật nói về tham sân
Chúng không biết mà khổ thân
Công đức tiêu phải đói nghèo
Muôn ngàn thứ do tham dục
Biết sợ sệt, phải tránh xa
Dứt đặng nó, vui khoái lạc
Vô tận kiếp sống no đủ
Không còn lại phải đói nghèo
Thân sang đẹp, rất trẻ trung
Sống dài lâu, chẳng hề già.
Tin lời Phật, nhận nơi đây
Đặng nhập đạo, quả báo này
Tột vui hơn, đem so sánh
Chẳng ai bằng, đây dứt khổ.
CHỦ BIỆT
Ngoài chư Phật, không ai nào bì kịp
Pháp đủ mầu, sáng thanh biết dường bao.
Đường Phật tu, ai đặng đủ đức vào
Pháp vô lậu kết trí đủ mầu cao
Phật thấy biết chẳng ai nào che dấu.
Từ vô thỉ cũng thông thấu 1 dây.
Mãi vị lai, biết đầy đủ không ngại.
Nhân nơi đây rồi chúng ta cũng vậy
Tin nhiều vào cũng đầy đủ như đây
Trụ thân thánh, ta mật tốt chẳng gầy.
Biết thế ấy thì giờ đây nên tiến
Đừng thối lui cố nhịp bước đi lên.
Hết đói nghèo thì du thuyền Bát Nhã.
Loại thuyền thần, sức mạnh rất sâu xa,
Qua đại Dương chỉ một vài sát na.
Tu đặng vậy mới đi xa thấy rộng,
Thấy hư không cũng đồng với thân ta.
Tỉa rút gọn trong ngoài in như một
Thân đầy lớn tràn ngập cõi hư không
Pháp lan ra duyên về làm một cõi.
Ai tu Phật ngó đây mà theo giỏi
Chẳng tìm đâu mà thực hỏi nơi tâm,
Dứt các lậu, nghe biết cả tiếng tăm.
Bửa đức từ mới đặng đủ thái, hư
Lòng bi an như biển
Hỷ lạc ái dường mây.
Chơn phước đặng đủ đầy
Thấy đó cũng như đây.
Ở trong vô lượng kiếp
Mà thấy như hiện nay
Thông bạch san làm một
Không còn chổ ngằn mé.
Pháp diệu tịnh vô biên
Các Pháp hiện đầy đủ
Muốn sao y được vậy.
Pháp chơn thông mau lẹ
Một làn quang bay
ra,
Duyên đến tận hằng sa
Rải xuống như rưới mưa
Tràn ngập vô lượng cõi
Làm sáng sạch các tối.
Vô minh hành thức diệt
Rồi rất sáng đẹp tươi.
Chúng sanh rất an vui,
Lâu đời khó nghĩ bàn.
Trong các cõi mười phương đều cũng sáng thanh tịnh, đất
không một vết nhơ, dứt trừ các bịnh não, mọi người bủa đức lành thương nhau như
một nhà, đức lớn đại bi tâm, dứt trừ hết tham sân.
Chúng sanh trong các cõi, nơi nơi đều có Phật hiện ra độ
chúng sanh, làm cõi đất thanh tịnh, các Pháp hiện ra đủ để nuôi dưỡng chúng
sanh lớn tốt đặng giác ngộ, để thành đặng chánh đẳng chánh giác. Phật vì hàng
chúng sanh chuyển vô lượng Pháp mà tế độ cho chúng, để loại bỏ chúng ma, để chấm
dứt sanh tử.
Chúng sanh thọ chánh Pháp thì dứt các hôi tanh, chỉ dùng hột
mà ăn, làm được như vậy đó quả an vui sẽ đến, nhứt định không sai chạy. Trừ khử
các nộc độc, không kiến hóa thú cầm, ruồi muỗi cùng rắn rết, cũng đều tiêu tắt
cả. Heo gà cùng trâu chó, đâu cũng trừ dứt hẳn, không vật nào hiện ra. Quỉ ma
nơi ngục tối cũng lấp vùi đốt sạch, cõi địa ngục không còn.
Đất bình thường trở lại bằng thẳng như bàn tay, không còn
gò hố sâu, không còn đất cát sỏi. Các cây thân trổ bông, cùng các cây cỏ thuốc,
tất cả đều xanh tốt, kết bông trái chín vàng. Hoa thơm thoảng mùi hương, bay ra
khắp cả nước.
Các sự vui về đạo, hưởng Pháp lành thanh tịnh, không ăn
cũng không đói. Không ai còn nghĩ tưởng, của ăn đến vật mặc, cũng không ai nghĩ
đến.
Nhân dân cùng cả nước, suy nghĩ có một chiều, đi một niệm
như nhau, không một ai sai khác. Đó là tịnh một nước, cả quyến thuộc trong đây,
ai cũng ham nghe Pháp. Bồ Tát đại Bồ Tát, nói ra các Pháp lành, cho vô lượng
quyến thuộc, đồng hội về nghe thọ.
Trên đãnh có Đức Ông, A Di Đà Như Lai, ngồi xem xét hạnh
nguyện, của con cháu mình tu, để cùng vào Phật thừa. Cam Lồ Vương Di Đà là Phật
tổ chúng ta. Con cháu của Đức Phật, cũng tâm Phật hóa sanh, mà tạo thành tướng
mạng, đi tu đạo chứng quả, rồi đồng đặng duyên về, đạo vô sanh Pháp nhẫn.
Phật đạo đi như vậy, bắt nguồn từ cõi đó, mà duyên đi vào
mãi, cho đến vô cùng tận, đặng vào nơi Phật huệ, đủ đầy đạo thần thông, đủ ba
Pháp thân sáng, có ba mươi hai tướng, và tám mươi vẻ đẹp, tám đạo giải thoát,
thần thông Ba La Mật, có Bồ Đề Tam Muội, Đà La Ni vô số, cả triền Đà La Ni,
Pháp Phật đà tánh đại bi, cháu con cũng đồng một, không một ly sai khác, đó là
Phật Pháp tịnh, của đạo Pháp Di Đà, xem kinh đạo Di Đà, chuyển Pháp 48 nguyện,
có 10 trí đạo giải, ban rải độ chúng linh. Mười phương Phật cũng vậy, đức A Di
Đà chuyển thân, đến cả mười phương cõi, hóa độ cho tất cả.
Cõi Ta Bà, Như Lai chuyển Pháp Hoa 12 lần qua 7 đời Phật,
thọ lượng hết 91 kiếp, đến cuối đời Thích Ca Mâu Ni Phật 2.534 = 1990. Kể từ thời
có Phật ra hóa độ, là Phật hóa thân A Di Đà, lấy hiệu Tỳ Bà Thi Như Lai. Đến
nay qua 7 vị Như Lai, cộng làm 91 kiếp. Kế sang 89 kiếp, tròn 180 kiếp, hết 1
vòng cung, thành – trụ - hoại – không.
Xem đây biết Phật quá khứ và hiện tại, qua sang vị lai sẽ
có 3 đời Phật, 3 nhân 3 bằng 9 đời Phật, Pháp, Tăng, ba đời gồm 9 độ.
THÀNH LÀ PHẬT – TRỤ LÀ PHÁP – HOẠI
LÀ TĂNG – KHÔNG LÀ PHÁP TÀN
Chúng sanh còn hay mất là ở đoạn này.
Đời đức Thích Ca diệt chỉ dài thêm có 500 năm là Pháp diệt.
Từ lúc diệt qua đó đến nay là không còn Pháp hóa độ gồm 2034 năm, không có Pháp
là 2034 năm, hưởng Phật pháp A Di Đà của đức Thi Khí và Tỳ Xá Bà, tính lường
công đức cho đời sau ở cõi này sẽ có 2 đức Phật ra đời, cùng một đời, độ chúng
sanh cũng một đời. Cho chúng hưởng quả thọ tăng gấp đôi. Đây Phật Pháp A Di Đà
chuyển về độ cháu con, cho đến tròn một vòng đạo là 90 kiếp, cộng thêm nửa vòng
thì tròn một vòng, cộng hai nửa lại thành 180 kiếp, 1 kiếp bằng 1 tỷ 342 triệu
40 vạn năm – 90 kiếp là 120 tỷ 816 triệu triệu năm. Trọn vòng bằng 180 kiếp
thành 241 tỷ 632 triệu năm. Nay chúng ta sống ở cõi này 1 nửa vòng – 90 kiếp –
120 tỷ 816 triệu năm rồi, từ nay trở đi sống thêm 120 tỷ 816 triệu năm nửa. Cuộc
sống ở cõi Ta Bà là như đây, không theo giỏi kinh pháp thì không ai tính biết
được cho nhiều đời kiếp lâu xa.
Cõi đại phạm cũng sáng lập trước đó trên 1 kiếp rồi sau mới
có Phật ra đời, thì Phật tính từ đời Tỳ Bà Thi Như Lai ra đầu tiên đến nay là 7
đời, là 90 kiếp trước đó, 1 kiếp của Phạm Thiên đã trụ là 91 kiếp số đời. Đời của
Phật Tỳ Bà Thi Như Lai chúng sanh thọ 8 vạn tuổi – Phật độ 60 kiếp = 80 tỷ 810
triệu năm 64 vạn, đời của đức Tỳ Bà Thi là tạo 64 vạn thân cộng 30 vạn thân là
90 vạn thân, từ đó lại đây chúng sanh đầu thai lập thân có 1 triệu lần. Nếu ai
cũng ra đời từ đời Tỳ Bà Thi Như Lai là thọ 60 kiếp, đời Thi Khí Như Lai 10 kiếp,
đời Tỳ Xá Bà 9 kiếp, đức Câu Lưu Tôn 5 kiếp, Câu Na Hàm 4 kiếp, Ca Diếp 1 kiếp
là 1334 triệu năm, sang Phật Thích Ca Mâu Ni có vài ngàn năm. Xem mà biết thế
Phật kinh bao khó.
Đây nói hạ kinh là các chúng sanh đều vướng vào các khổ.
Lời nói độc, của vật đổ
tràn, cơm gạo đậu mè phí phạm, y áo chăn mùng dày vò, tạo ra đều vung
vãi, phá tan. Bất luận của ăn vật mặc, thậm chí có người xé hủy tiền bạc, đốt
vò, phá tan của cải đáng sợ, hết rồi thì tham thủ, không được thì hung hăng giận
dữ, chửi thề, hành hạ, thù hằn vân vân…
Chửi cha mắng mẹ, quyến thuộc đều kinh mạn, rẻ rúng. Ba
nghiệp mà tạo ra bao nhiêu thứ độc khổ, suy xét đây để so lường, chúng sanh bị
sa đọa vào ngục, nói sơ qua cũng đã thấy đau đầu.
Phí của ăn thì đời đời đói
Phí của mặc thì đời đời rét
Phí quần áo thì đời đời trần truồng.
Nói tóm lại bỏ món nào thì mất món ấy
Nói lời độc ác thì câm ngọng, môi sứt miệng méo, tai điếc,
các căn độn không biết gì.
Chê của ăn thì mũi tẹt cổ nhỏ, cuống họng hay đau, răng
gãy. Chê món nào là hết món đó.
Thân hay phá tán thì thân què, lệch không đi đứng được vân
vân…
Ý độc thì hết còn biết gì, điên, chết bờ, chết đuối, rất khổ.
Kinh này đọa ai sai lạc vô đây không có ngày ra, nên tu
hành phải giữ thân căn, căn mạng làm sai thì mất tất cả.
Viết ở đây, xem mà lo gìn giữ, Phật Pháp chỉ cho biết chổ
sai trái để khỏi mất căn thân thì đọa khổ phải đề phòng.
Muốn đặng đủ thân căn
Phải gìn giữ khít khao
Tất cả đồ nuôi sống
Dù mục thối rã rồi
Cũng đều phải lượm lặt
Không bỏ sót một hột
Mà gìn cất giữ kỹ.
Sàn lọc cho sạch sẽ
Mục nát đều phải lượm
Thì công đức không mất.
Y áo chăn mùng mền
Phải giữ gìn cho tốt
Ai làm sai lãnh tội,
Đời đói rét bịnh hoạn
Chết vào ngục A tỳ
Ít ra cũng tam đồ
Chẳng có thể tránh né.
Đây mới nói sơ qua cho ai có duyên thì giử lấy thân, kinh
báo khổ có đủ 9 bộ 6 căn tam nghiệp tạo ác. Chúng sanh thôi dứt được nghiệp dữ
thì đặng 9 phẩm tốt, và 6 căn, 6 trần, 6 thức đặng thọ về đạo.
Khổ lìa đoạn rồi
Pháp dứt sạch rồi
Diệt tắt các cõi rồi
Đạo độ đây rồi.
Chúng sanh cầu đạo, không biết được mình tu để lấy cái gì?
Lấy Pháp thì Pháp đó ở đâu?
Có bao nhiêu món?
Làm thế nào mới đặng?
Đây nói :
Pháp thì ở nơi tâm sẵn có, vì không tu nghiệp lành nên Pháp
loãng. Pháp ấy như hơi nước bay ra, trong đó có nhiều món, món tốt có, món xấu
có. Tuy là hơi mà không mòn. Có mãi chúng không hề biết thấy, chừng nào hơi kết
thành keo ví như nước đá mới thấy.
Muốn đổi Pháp ra loại nào ta thích thì tự đổi để Pháp trở
thành món đó, thí như ta ưa Pháp thành Kim Cang thì ta niệm – Kim Cang – quyến
– sách – ái – ngữ.
Muốn làm Đà La Ni thì ta tìm lấy 9 câu mà niệm liên tục
không bỏ xót, hoặc theo các bài chú ở kinh Phật.
Muốn Tam Muội thì cầu thầm Kinh Đại Thừa, ai muốn có Tam Muội
thì cầu liên tục, Pháp sẽ kết theo, duyên vào, cửa Pháp được khai mở, là niệm
diệt cho Pháp thành chơn, ta thâu Pháp mà không ai hề biết.
Đó là hơi thở kết vô tâm chơn mà bay ra, tiếng lời cũng ở
đó mà xuất ra tiếng nói, đều là trong chơn tâm cả.
Bao nhiêu nghĩa mầu của câu nói cũng đều ở trong tâm chuyển
theo căn mà phát ra tiếng tăm. Chúng sanh Pháp còn non mõng nên chưa kết đặc.
Người già tu cầu đạo lâu đời, Pháp kết thành hột nằm nơi
trong ta, xem như bụi cát nhỏ, kết vào thành một khối như cục đất mới. Vì không
được tản ra, mà xả hơi độc của thức. Môn Pháp này không có bổ ích, loại này phải
hầm lửa cháy tan ra khói, lọc lại mới dùng được.
Pháp ở Pháp âm là Đà La Ni chuyển ra lời nói đâu được đấy,
là Pháp Đà La Ni có văn trì, tổng trì Pháp âm Đà La Ni vân vân… thành quả vị, cứ
kết đặc đọc niệm cho nhiều không dời giây phút. Khi đọc niệm giải câu:
Tứ tánh cao thâm
Huệ Phật tâm
Sách lược kim mầu
Diệu dụng siêu.
Cũng như ta lấy đường trộn vào bột. Ai hiểu được như đây,
ai cũng tu được cả, mà nước Pháp tốt có diệu dụng thì phải ăn ở sạch, không tạo
ác, không nói ác, làm ác, ý không nghĩ ác, thì tu đặng quả ngay.
Phật diệt chơn toàn bộ làm một mà độ, đồng hòa hiệp, tâm
lành thì không ác khẩu,Trong đó có 6 món đều lành cả mới tu được.
Ta có đủ căn là đủ các Pháp.
Phần thấy
Nghe
Ngửi
Phần nếm lưỡi
Phần hành là thân
Phần suy xét ý.
Cho 6 căn lớn thì niệm 6 câu:
Thí dụ niệm :
Nam mô thần đế Kim Cang Quyến
Nam mô thần trí Kim Cang Quyến
Nam mô thần lực Kim Cang Quyến
Nam mô thần biến Kim Cang Quyến
Nam mô thần huệ Kim Cang Quyến
Nam mô thần túc Kim Cang Quyến
Nam mô thần mạng Kim Cang Quyến
Nam mô thần thông Kim Cang Quyến
Đây là tu chớ ở đâu tu:
Người chơn tu, tâm đạo bất khả xuất
Khẩu ngôn bất khả suy
Ý trí mật hạnh trụ thanh tịnh
Tầm nhứt Pháp, lau lọc
Duyên kinh đi hòa đồng Pháp.
Trì Pháp Kim Cang thì Pháp mình thành kim.
Đã có rồi chẳng phải tìm cầu
Đã được rồi nơi đâu cũng đến
Đã làm rồi, ngồi mát thọ vui
Đã đến rồi hết còn chử đến
Đã đi rồi không đi nữa
Đã nói rồi còn chi mà nói.
Người muốn đặng Pháp màu mình lớn sạch, ắc phải trọn nên
gìn giữ mới thâu đặng Pháp tốt.
Trì kim thân Phật.
Pháp Như Lai đẹp – sáng thanh – hóa đến mười phương cõi,
thanh tịnh khó nghĩ bàn vân vân…
Các con đều thọ mạng … xin Pháp mầu tổng trí huệ …
Khổ Đế
Khổ - tập – diệt
Các hàng tu vào diệt đế trong 3 khổ: Thân khổ - khẩu khổ -
ý khổ, diệt tắt 3 đế này đi vào đạo đế.
Chơn tu đạo nhứt thừa để vào đạo thanh văn thừa. Diệt đặng
3 nghiệp rồi đi vào diệt 6 căn để vào đạo đế, tham
diệt, thân diệt, si diệt, điên đảo diệt, vọng diệt, chấp diệt. Diệt hết điên đảo
thì hết dục nhiễm, đi vào đạo đế, dứt các lậu, mà đi vào pháp tánh, mà lìa đặng
4 tướng. Nhơn ngã chung sanh thọ diệt - vào chơn đế. Dứt lìa 3 nghiệp 6 căn,
thì có 9 phẩm sen vàng, suy ra cho tột, gốc ngọn còn chơn không, còn ràng buộc.
Các cõi mình đi qua đều tuốt sạch gọn gọi là thông các đạo, cõi nào cũng không
còn có nhân duyên gá vào, đó là hết sự ràng buộc, không phải chỉ trọn 1 pháp
thân mà nói rằng tôi đã được một đại tâm cơ, ta gieo hột giống trãi qua như cát
của sông Hằng còn thua, hà huống chỉ làm có 1 bụi mà nói đã được là phi lý. Nên
vì sự tu học mà Pháp phải chơn thiệt để duyên được vào chơn Pháp mà tuỳ theo điểm
trụ đặt Pháp của mình, từ Pháp kết từ 1 tiểu kiếp là số Pháp san ra rộng 16 triệu
780 ngàn năm, cho đến 10 tiểu kiếp, 50 triệu kiếp, 100 triệu kiếp mà số Pháp
sâu vào gần trí của Phật, nhập vào Pháp đó - thấy từ vô thỉ kiếp số lâu, mà thấy
như trước 1 giờ lâu, hay 30 phút lâu mà thọ Pháp chơn như như hiện tại, không
thấy hôm qua hay buổi sáng, mà hiện tại đó cũng như đang dọn bửa cơm trưa ăn.
Vào đại Pháp là như vậy.
Muốn đặng an lạc - tu
hành thành đạo trong thời pháp tắt dứt.
- Người tu hành hạnh Phật
phải nhẫn nhục, nhu hoà bình đẳng, thuần diệu đối với mọi người nơi hành xứ chổ
ở của mình, đi lại quen thuộc nhiều lần, dần dần tu học đặng Pháp quán, rồi mới
đem kinh Phật ra giải nói vânvân... chỉ bảo, chỉ dẫn chúng vào Phật đạo.
Trong thời mạt pháp,
người chơn tu Phật phải nhẫn nhục nhu hoà, không gần quốc vương, quan đại thần,
không gần quan quân, xa lìa người hành ác, kẻ đồ tể cắt thai, kẻ săn bắn chài
lưới, người hung hiểm, bè phái. Những gái trinh gái goá cũng chớ có gần gũi và
người bất nam.
Nếu gần, nói pháp trụ
tướng thanh tịnh, oai phong như núi Tu Di, không nhiễu cợt, giỡn cười, trang
nghiêm, phong độ. Bủa lòng từ nhu hoà như vào nhà Như Lai, từ bi hỷ xả, hoà dịu
như mặc y của Phật. Xem xét như ở toà Như Lai, như ta tịnh giải không không.
Xem như hư không mà nói kinh cho họ nghe, người trí đến nghe nói Pháp mà không
có lòng mong cầu.
chuyển thân ra xa các
cõi xem xét có chúng tu học hoặc đúng hoặc sai, cũng mặc không chê bai mà làm
cho chúng khi dễ. Chỉ đem Pháp Đại Thừa rốt ráo trí huệ khuyên chúng siêng năng
tinh tấn, siêng năng trụ thiền định là xong các đạo để vào tri kiến Như Lai.
Nếu gặp chư Bồ Tát phải
hạ liệt lễ lạy, cung kính tôn phụng làm tâm mình được trụ vào huệ Phật, dần dần
Pháp lớn mạnh, chuyển Pháp đi độ sâu nhập vào pháp môn nghe đặng chư Phật nói
Pháp, và thấy mình ở trong đó nghe Pháp – được Phật thọ ký cho, rồi chuyển Pháp
đi diệt quân ma, tiêu vô minh cho các cõi mà đánh rềnh tiếng trống, thổi Pháp
loa, đánh Pháp cổ, thổi ốc Pháp, diễn Pháp nghĩa vân vân…
Ví như hình tướng của
Phật ra quân thắng trận. Phật ban cho vô số thức quí, có viên châu giữ lâu mà
đem cho đó là Bồ Tát tu hành trong đời mạt Pháp được nhiều công đức như vậy.
Thọ theo, cải sửa lại
các sự sai trái của mình từ vô thỉ, hiện tại lo sám hối, tâm sửa lại ba nghiệp,
6 căn đạo cho tốt, vào Pháp tánh vô lậu ta nên bủa ra công đức lớn rốt ráo, lìa
trượt ngã, kiến ngã, nhớ các Pháp lành, trì Kim Cang.
Các Đức Như Lai thường
dẫn dụ chỉ đạo cho chúng sanh đi quảng đường xa, vô tận lâu đời. Như đức Phật dẫn
dắt chu đệ tử xuất phát từ đời đức Phật Đại Thông Trí Thắng, từ đó lại đến đây
thật là lâu xa, ví ta lấy đất của Tam Thiên Đại Thiên hòa làm mực đi qua một
ngàn cõi nước bèn chấm một điểm trần, chấm hết số đất mực ấy lại bắt đầu lượm số
đất ở chỗ có điểm và cả không có điểm gom lại se làm bụi, đợi một kiếp lâu bèn
nhỏ một bụi, nhỏ hết số đất bụi rồi mà chờ không có nhỏ bụi, đến đây lại còn
lâu xa hơn số kia, thì số đệ tử đi theo tu học quá lâu xa như thế đến nay vẫn
còn đủ đạo trụ quả thanh văn, nay mới được thọ ký quả Đại Thừa Bồ Tát là bắt đầu
dẫn dắt từ chỗ nghỉ chân vào chỗ châu lớn. Xem vào để biết được hướng đi quá
lâu xa của các chúng sanh mà vẫn được quả Đại Thừa, không phải là dễ được.
Chúng sanh đi vào đạo
vô sanh rất là khổ nhọc, bị rơi rớt giữa đường sa số, đưa đến chỗ nghỉ chân chẳng
còn bao nhiêu.
Một sự mài lọc, khảo
chat chúa, nẫy lửa, kẻ ác hành hạ chẳng tha thứ vân vân…
Không khác gì qua đường
hiểm, biển rộng, nên nhẫn nhục vượt qua, qua đặng chớ rằng rịt, đặng thông thấu
các cõi tâm thân, không còn bị nghiệp báo thắt buộc, mà được tự tại dứt lìa được
các khổ, mà tự ra khỏi nghiệp báo thân tâm đặng sáng sạch. Qua được cạm bẫy rồi
– sự an vui khoái lạc vân vân…
Đức Như Lai nói từ đời
vô thỉ, lúc ngài còn làm đại Bồ Tát ở trong hội của đức Phật Oai Âm Vương Như
Lai, trong danh hiệu Oai Âm Vương, trải qua hai vạn đức Phật ra đời cũng đồng một
danh hiệu là Oai Âm Vương.
Qua đây ngài lại vào
giáo hội của đức Nhựt Nguyệt Đăng Minh, trải qua hai vạn đời Phật cũng đồng một
danh hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh.
Về sau còn qua các giáo
hội của ngàn muôn đời đức Phật ở đời sau, mà đến nay qua vô tận vô thỉ. Chung,
ngài đã làm Phật, và chuyển trí duyên Pháp thân làm Bồ Tát mà ra độ cho vô lượng
chúng sanh, chỉ dạy cho vào trong tánh trí của Phật, để cho thành chủng trí huệ
của Phật.
Ngài làm Bồ Tát ở đời đức
Oai Âm Vương Phật, lúc Pháp tàn các hàng tu đạo thường không thanh tịnh hay chê
chấp, ngài đi qua bất cứ ai cũng lễ lạy và lớn tiếng nói lên rằng “Tôi rất quí
trọng quí ngài, quí ngài tu đạo Bồ Tát rồi sẽ thành Phật”. Có người bèn chấp,
khinh tiện mắng nhiếc, ngài vẫn đi lễ lạy “Tôi chẳng dám khinh quí ngài”.
Nên chúng sanh gọi ngài
là Thường Bất Khinh tỳ kheo. Ngài rất là hạ liệt, từ bi hành nghiệp cao cả, làm
cho mọi người lìa lòng chấp.
Phật độ dẫn dắt từ đời
cổ Phật xưa, đến đời Trí Thắng Phật vẫn làm vị đạo sư dẫn dắt chúng mãi, đến
ngày nay mới đặng thọ ký quả vào Phật thừa Bồ Tát, dẫn dắt làm nhiều lớp đưa
vào chổ nghỉ chân, đợi đó rồi dẫn tiếp để vào nơi Phật thừa.
Nên nay Phật ra đời xem
ai còn xót lại tiếp dẫn vào đợt sau.
Xem đây biết hạnh Phật
thương chúng mà trước ra làm Bồ Tát bình đẳng, mà khuyên bảo chỉ bày, tiếp dẫn
chia thứ lớp về nơi chổ Hóa Thành là chổ cứu cánh Niết Bàn, nơi đó là chổ nghỉ
chân của hàng thanh văn duyên giác đủ đạo mới băng qua về Đại Thừa Bồ Tát .
Từ sơ địa đạo của hàng
Bồ Tát mới phát tâm, các Pháp đủ rộng lớn mới duyên qua nhị địa Bồ Tát các Pháp
trụ tướng, ta thấy vô số bò vàng từ đó lên tam địa.
Bồ Tát tứ địa thì các
Pháp kết tướng như tướng trâu xanh, từ đó qua các địa, sang các địa Bồ Tát mới
đem bầy trâu thắng vào cõi âm mà phá vô minh, làm cho sáng trở lại, chúng sanh
nhờ đó mới được quả vui mà giác ngộ.
Như Lai chuyển Pháp về
các ngục, cho mỗi lần chuyển Pháp Hoa, còn sau đó dần dần vô minh phát khởi trở
lại, các ngục đều bị vô minh che lấp.
Bồ Tát hành đạo phải di
chuyển đại Pháp mà xuất hành chư thánh và Bồ Tát đi sau, bày thánh Ngưu đi dẫn
đầu, chỗ nào có vô minh xuất Pháp ra thành bầy thánh đến bủa vây đưa đầu lấy sừng
chém làm cho gò vô minh tan mà sáng trở lại. Đây việc của Bồ Tát Nam Thiên làm
gần 30 năm ở cõi Ta Bà này. Đây chỉ cho mọi người biết công dụng mà làm, về sau
đều đặng quả Bồ Tát, đều muốn độ chúng sanh thì phải từ NGỤC độ ra dấn thân vào
hang hầm sâu mà dẫn dắt chúng ra. Ai không làm như đây, không phải Bồ Tát đạo của
đấng Phật.
Công đức đây mới lớn,
chẳng ai nào sánh kịp. Đã có ai thấy bầy thánh hiện thân hành đạo, bầy tướng
trâu bủa ra chân kim ở sừng sáng như điện, coi đẹp chưa từng có vậy. Bầy thánh
hiện ra thành hàng, đồng đi dạo làm tắt dứt vô minh, thức tốt đầu tan rã, các
ngục có ánh sáng, chúng sanh đặng hưởng Pháp, mà khao khát mong chờ cầu xin được
đặng tha độ.
Chúng sanh đều lìa các
độc,
Qui về theo đại đạo,
Loài ma quỉ tiêu tan,
Chúng sanh đặng siêu về,
Các ngục tự tan biến, đất
sâu đầy trở lại,
Phẳng bằng và sáng sạch,
Mát mẻ đến lâu đời.
PHẬT CHUYỂN
PHÁP HOA ĐỘ
Như Lai nói Pháp, rung
động cả hình sắc, sáu điệu vang động mười phương. Cả Tam Thiên Đại Thiên, cho đến
mười phương cõi chư Phật.
Chư Bồ Tát hội về cùng
thánh chúng. Thiên vương chư thiên số nhiều như cát của sáu mươi sông Hằng để
làm cho chúng tỏ ngộ tin về các Pháp của Phật.
Hào quang Phật chuyển
ra, ánh sáng soi cả mười phương, xa một vạn tám ngàn cõi Phật.
Nói kinh Diệu Pháp Liên
Hoa Phật Pháp sở hộ niệm, cho đại chúng thấy từ cõi này qua các cõi kia rỏ rệt
như trước mặt 50 thước, nhập Pháp sâu hằng 50, 60 triệu kiếp.
Pháp Phật rất sâu xa,
suốt thâu vào đạo trí huệ. Chư đệ tử không rỏ Pháp lớn nên hỏi Phật – Các con đặng
dự hội từ xưa, chưa từng thấy, đây Pháp lớn này – huệ Phật sáng vô tận xin Phật
vì chúng con mà nói nghĩa đó. Như Lai nói – Pháp sâu mầu khó nói, khó hiểu, nói
ra chúng sanh nghi nên chưa muốn nói. Chư Bồ Tát đều lên tiếng xin ngài nói cho
chúng con đặng nghe.
Như Lai nói, nay ta vì
chủ ông mà nói, lóng nghe mà nhớ lấy. Ta lâu xa ra đời một lần, có một dụ là
đem đạo tri kiến làm cho chúng tỏ ngộ, để cho chúng sanh đặng vào Pháp Trí Kiến
của Phật, ngoài ra không một việc nào khác. Trong các Pháp ở mười phương chỉ có
Pháp Trí Kiến của chư Phật là tột sâu mầu, khó tin, khó hiểu.
Vì Pháp sâu mầu vắng bặt
tiếng nói năng, đi sâu vào tịch diệt – soi thấu vô tận kiếp của tất cả chúng
sanh, không một nét nhỏ nào che dấu. Đem được tất cả chúng sanh vào đạo nầy thời
không còn có chúng sanh nào phải rơi vào chổ tối tăm, sanh tử luân hồi, cũng
không còn có ngục Tam Giới như hiện nay.
Ngục Tam Giới này cũng
không phải ở đâu lại, mà tâm chúng ta tạo ra đó thôi, do chúng sanh cấu tạo dục
thiên nhơn gian, Tam đồ địa ngục cũng là tâm tạo, không phải con người tạo.
Số này đưa lên đưa xuống
chỉ có một ngôi chủ, gọi là Pháp Vương Tử, hay Pháp Vương chuyển đạt. Nếu không
có thì cứ vậy nằm lỳ mà chờ vô tận, chừng loài người dứt lìa tham ác thì tâm sẽ
tự nó diệt, tự nó bay lên trở về hư không.
Thay vì chúng sanh còn
đắm mê tảo tần, cộng nghiệp tâm bi thô trược, sắc đen bám vô làm cho thêm nặng
mờ tối. Đó gọi là tội cho Thân và khổ cho Tâm vậy.
Tại sao không ở trụ
trong nguyên thủy của nó, sống lâu 80 ngàn tuổi, mà phải sống có 100 tuổi, thay
vì tham dục, chất lượng các công đức hao
tổn mòn mất công đức sẵn có vân vân…
Do đó ngày nay các loại
chúng sanh ở đây vẫn còn lăn lộn trong sanh tử, chưa được tháo gỡ, mỗi ngày
công đức mỗi mòn hao, thân trược, mạng kiếp kiến ngã trược, đã thế rồi còn thêm
điên đảo. Sắc, lực, dục nhiễm, ham mê đắm đuối, nhơ nặng tối tăm, ba món độc
kéo co loạn động trí não, si mê …
Các hoạn nạn không hề
chấm dứt, bịnh não càng gây cấn và tăng cao. Mọi người xem đây phải nghĩ lại bản
thân khô cạn của mình mà hối hận để xám hối giải độc, may ra được bề giải tâm
cơ, tướng mạng căn cơ vân vân…
Căn cơ là cần thiết, mất
căn cơ như mất tất cả lẽ sống, khó lấy lại được. Đây nói thật không dối.
CHƠN TU
Chơn tu đạo nhứt thừa
là đạo thánh, thanh văn tăng và đạo duyên giác. Trụ đủ các tướng Pháp hiện ra
mà thấy có đủ một tướng Dê – đạo A La Hán, tứ thánh có phước điền đạo tứ đế tâm
cảnh sáng sạch, gọi là xe dê mà Phật nói đó.
Quả duyên giác là đạo
ngũ thông, Bích Chi Phật có năm đạo phẩm pháp tướng hiện ra – tướng Hưu thuộc
12 nhân duyên, các món đạo này phải trụ thiền mới đặng mau thành đạo.
Nhớ niệm diệt trừ lậu,
vô minh, có hành do hành, mới có thức, mới có tên là danh và sắc, có của tên gọi
ví như ta trồng ra đậu, mè là tên của vật ta tạo ra. Thân ta tạo tùy theo căn,
căn tạo rồi thì thân ta mang vác đủ 6 phần gọi là lục nhập 6 món thâu về, xúc,
thâu lượm thọ đem về dùng gọi là thọ, ái là ưa thích, thủ gìn giữ kín, hữu tồn
kho là có căn, sanh là tạo thêm, lão già, rồi hết tạo rồi chết, thì thương tiếc
là ưu bi buồn cảm lưu luyến vân vân… gọi là khổ não.
12 nhân – quả duyên đi
cấu tạo, tu trừ dứt đặng món này thì đủ 12 cửa Pháp, đạo đạt quả không tánh,
trước ở phần thanh văn đặng 4 quả gọi là Đại Thân, vào quả thứ 5 gọi là 5 đại,
nên nói là thánh ngũ thông (Bích Chi).
Quả duyên giác thừa có
tướng Hưu – gọi là xe Hưu, thọ ở quả này cũng sướng no vui. Đạo này trót cao là
Ngũ Thông, trở xuống của thân nhiều đời trước thọ quả thanh văn một lớp tùy
theo số lượng lại còn loại trụ bất lai. A na hàm lại còn số Pháp thân sau thọ
quả nhứt vãng, lại còn số Pháp thân mới nhập Thiên gọi là hàng nhập bửu. Lại có
hàng thiên thần, nhơn thần, A Tu La thần vân vân…
Một đạo của một người
thôi cũng chia ra vô số lớp Pháp thân, mỗi thân thọ mỗi cõi, có khi 300 thân
hay 400 thân trụ vào làm 1 cõi, có khi 500 Pháp thân chia làm 5 cõi Pháp. 100
thân sau đó lại còn vợ con, cha mẹ vân vân…
Tùy theo, có lắm vị
hàng đầu, lớn nhứt gọi là đạo sư phải tu cho 500 pháp thân mình có, 500 pháp
thân bên em, vợ con mình, và cả cha lẫn mẹ cũng cả 500 thân, thì có cả mấy ngàn
pháp thân. Có ai rõ đặng điều này đâu, ai tu cũng chỉ rốt ráo đủ 500 đến 600.
Vào đồng 1 cõi Pháp mà trụ thiếu một cũng không được, chớ đâu chỉ tu có một
thân thôi đâu nên mọi người lầm to, tưởng tu vậy đã đủ.
Vào đặng lớp Pháp 18 A
La Hán, thêm 6 lớp Pháp của quả duyên giác là 24 Thiên Sắc Cứu Cánh vậy. Dọn đủ
đây thì Pháp thân lớn nhứt ở quả nầy – vì thiền sâu duyệt đủ các Pháp mới duyên
sang Bồ Tát sơ địa đạo của hàng Bồ Tát, mới đặng chuyển đất Pháp của mình bay
sang chổ đất trống của cõi Bồ Tát, để chuyển vô đó mà làm đất Bồ Tát, mà kéo dần
các Pháp thân đã đủ đạo mà về đó trụ… Cứ chuyển đất liên tục mà lập Thiên Quốc
Bồ Tát của mình, cho đến số đất đủ 10 địa đạo Bồ Tát mới đặng thọ ký quả Bát Địa
Bồ Tát. Cứ xem đường ta đã làm mà định duyên theo. Nếu ai là quyến thuộc chỉ tu
riêng thân của mình để về trụ.
Cõi thật là như đây, lấy
Pháp làm đất để nương ở vậy. phải là Như Lai thọ ký cho mới chắc ăn, không có
Như Lai chứng minh thì không có chỗ đặt Pháp trụ đâu.
Đạo nhứt thừa đi vào Đại
Thừa, là Bồ Tát đạo của Như Lai. Đạo của Phật thừa từ hàng Bồ Tát sơ địa – tu –
có lục thần thông và có 6 Ba La Mật – nghĩa là trí huệ sâu gọi là Nhứt Thiết Trí,
giới Ba La Mật, thí Ba La Mật, nhẫn nhục Ba La Mật, tinh tấn Ba La Mật, Thiền định
Ba La Mật, thì trí huệ là Pháp cao bật nhứt.
Sáu Pháp Ba La Mật gọi
là Pháp rốt ráo. Ai tu đạo Bồ Tát mà không rốt ráo thì không đặng Pháp Ba La Mật.
Gọi là an trụ trong 6 Pháp rốt ráo là của Phật và Bồ Tát vậy.
Bồ Tát chỉ có 5 Ba La Mật,
trí huệ là Như Lai mới có, Bồ Tát Ma Ha cũng có phép Ba La Mật và trí huệ nhưng
kém mỏng hơn. Tu đủ có 6 đạo quả Ba La Mật, đây mới là lâu khó đặng lắm vậy.
Đạo lục thần thông
Khi đạo đế thông thì
tâm cơ và căn quả đều thông vậy. Đạo Bồ Tát đi hết cục bộ của quả Bồ Tát Ma Ha
Tát, ta thấy Pháp ta trụ trong hư không, bầu trời rộng thênh thang thì Pháp ta
trụ kín khắp tất cả, không còn chỗ nào là không có Pháp ta trụ. Pháp tướng trụ
hiện ra bò vàng, trâu xanh đi dàn từng bầy đua chạy trong đó rất là vui đẹp. Đạo
quả là đây, song tu đạo Bồ Tát còn rất nhiều món tu, khi di chuyển đi xa bằng
các Pháp duyên về kết tụ làm thành một giải đất rộng, có núi có rừng cây, đồi,
ruộng rẫy, đường xá đủ loại. Lúc cần là núi bay lên trút nước Pháp xuống như
mưa rào, vừa di chuyển vừa phun nước… để độ cho chúng sanh vậy. Đây việc ta đã
làm nên ta biết như vậy, còn ai tu và hành của họ ta chẳng để ý họ làm gì.
Đường đạo của Bồ Tát
Nam Thiên đạo đạt đầu cuối đều đi theo đây, nên hiện nay tạo của đời hiện nay tự
trang nghiêm pháp thân được 4922 vị đại Bồ Tát, đó là nhờ công đức độ linh căn,
nếu không có độ linh căn chỉ giỏi lắm là 3 pháp thân Bồ Tát không hơn. Có lắm vị
tu đạo Bồ Tát một đời, chỉ có 1 hay 2 pháp thân, cao lắm là 4 hay 5 vị, rồi còn
hàng sau kế nhặt lên thêm vào. Đến đạo này mới đặng như ý Pháp.
XEM ĐỂ BIẾT
MÀ TU
Chuyển đế
Sau chuyển 4 đại – diệt
6 thức - của 6 căn – 6 trần, lấy 4 đại, thân Đại Quang không tánh.
Đây là đạo cốt – đạo
ngũ thông.
Đã có 4 đại rồi, thâu một
là ánh sáng của nhựt nguyệt để đủ 5 đại. Bồ Tát cũng có đủ số trên là 5 đại,
thêm 1 nửa là quả Đại Kiến là 6. Như Lai thêm 1 cộng 6 trên là 7 quả Đại Thức
Giác.
Chơn tu Phật đạo
Mở huyệt đạo nơi thân,
chuyển 4 đại Pháp thì kết 4 Pháp tướng, gọi là tướng dê, đạo thanh văn.
Đợt 2 là ngồi thâu ánh
sáng để đạt Hưu là quả thứ 5 gọi là Đại Minh (chú), là chú tâm, chăm chú 1 điểm
sáng lớn mà thâu cho có tướng Hưu là quả không tánh, đủ đạo nhân duyên.
Tu vào Pháp 6 Ba La Mật
để đạt Bò Vàng, Trâu xanh là đạo của Bồ Tát Đại Thừa. Đạo nầy chỉ đem Pháp bố
thí rốt ráo cho chúng sanh mà thành quả Đại Kiến – có vô số bò vàng trâu mập,
ngàn Pháp tướng như vậy.
Ở đạo Bồ Tát làm giới
mà không có hạn ngắn dài – đó là giới Ba La Mật (trí của giới), là trí huệ rộng
soi xa qua các cõi.
Bố thí cả thảy các Pháp
hạnh này đổi lấy Bò vàng Trâu mập, nhẫn nhục Ba La Mật – loại trí huệ này kham
chịu khổ lắm mới có đặng trí huệ loại Nhẫn. Tinh tấn Ba La Mật – quả siêng năng
mà có trí tinh tấn. Thiền định Ba La Mật là thiền trí – quả thiền và định trí
huệ soi sáng thông bạch.
NHẮN EM THIỆN NGỌC
Trí cả gắng lên cầm lèo
lái
Định hướng chọn ngay thẳng
một chiều.
Qua sông vượt biển sóng
gió to,
Lái lèo vững chắc mới
vượt qua
Biển cả sóng rền theo bảo
táp
Nguy hiểm đừng buông bỏ
tay chèo.
Trong đời qua lại gắng giữ
thân
Biển chông bén nhọn lở
bén chân,
Làm sao em bước khỏi lưới
trần
Gắng giữ lại đi sẽ có
phần.
Giải lý sau đây cho đặng
rỏ
Đừng nhớ, đừng mê thoát
biển trần.
Không giận, không hờn đặng
qua sông,
Nhẫn nhục nín thinh đừng
gây gổ
Biển lớn ta qua mới dễ
dàng.
Oán thù, oan trái bởi
lòng tham,
Dứt mối dục tham đặng
Niết Bàn.
Nợ nần nhiều kiếp cũng
đã vay
Hiện đời không trả khó
đặng bay.
Không nợ, con cái – món
nợ to,
Đặng trả xong rồi mới hết
lo,
Nợ không hoàn tất phải
sâu cày.
Đòn đau nhiếc mắng cả
ngày đêm.
Khôn lanh nên nhẫn, bịt
tiếng hơi,
Giữ cho kín khít mới
qua khơi.
Đừng một nét sân đặng
thoát ly,
Nếu không nhẫn được, mắt
thời rưới mưa.
Trải qua nhiều kiếp
không tha,
Có khi án mạng khóc la
lâu đời
Biển trần khổ lắm
thương ôi …
MỤC TẾ ĐỘ
VÀ TIẾP ĐỘ CHƯ LINH
Từ năm thọ ký đến nay, Ất
Sữu năm xưa.
Chuyển Pháp thân dàn
bày pháp thánh
Băng qua đất trần vào địa
ngục,
Trong đây tối tăm chẳng
thấy đặng món gì.
Hàng ngang thành bầy bủa
Pháp quang
Lúc này thấy rỏ đủ các
hàng,
Hồn linh ngồi yên như
tượng gỗ
Thân gầy đầu không còn
tóc,
Ngồi đây thọ tội cả
muôn năm.
Rưới cho mưa Pháp mới tỉnh
dậy
Mọi người đều khóc mũi
lòng thương
Thấy chúng khổ lệ lòng
ta tràn đầy.
Qua 2 tuần thọ giải cho
chúng linh
16 ngày của buổi tháng
năm năm đó
Pháp thấm vào chư linh
đều ngộ.
Các cụ già giơ tay đứng
dậy xưng mô Phật các con tội nặng, xin cứu độ ân sâu khó đền …
Ta lên tiếng :
“Nơi đây khoảng được mấy
thiên chư Bác”
Ông thần đáp :
“Kính bạch Phật số đông
tới 6 triệu rồi”
Bảo thần ơi gọi tất cả
cho lên, ông dẫn đường trên có thánh đợi đó. Nên năm nay độ luôn cả đêm, có
trên 2 ngàn triệu chư ngũ linh đặng về thọ học Tỳ Kheo ở cõi Tân Quốc Nam
Thiên, đức Ông ta vui mừng, gọi ta lên vuốt đầu ta. Nước mắt ông chảy mãi, ta
cũng khóc theo – cam lồ vương A Di Đà Như Lai , ông ta xót thương thân ta chịu
khổ cho chúng sanh …
Trong âm phủ tam đồ… thấy
tạo được bầy Pháp tướng thật là phước đức. Nhờ Pháp tướng mới khai đặng thông
các ngục, chớ riêng pháp thân đi dạo một tuần may đặng vài chục linh là cao.
Bà Tín đem xe thần chở
linh về, bà hỏi ba nó ơi mình mệt không, thưa không sao anh khỏe mà, bà hỏi nhiều
linh không? Thưa nhiều vài triệu. Ở điểm này xe em chở được mấy người? Bà nói
em chở mỗi xe 115 người, là vậy có mấy trăm xe, bà bảo có 6 ngàn ông, mỗi ông 1
xe.
Đức ông ra lệnh trên
đó, ta bảo bà Tín : Gắng lên em để trọn độ, bà Tín nói em đi.
Nay là 19/05 ta đi gọi
cho chư thần công đức, và bảo các ông gắng đưa linh lên cho Phật, chư ông sẽ đặng
quả báo tốt đừng lo, Như Lai không để chư ông bị khổ mãi đâu.
Qua năm nay, sang các
năm sau đều đều mỗi năm trăm triệu, chỉ có năm Giáp Tí Ất Sữu 1986 là thâu của
năm Giáp Tí có 2 triệu linh, vì bà Tín đau mà qua đời – Chư Bồ Tát chuyển Pháp
đè Pháp ta hết 6 tháng, các ngài sợ ta thắng, muốn cho ta ngụp, sau đó ta phản
công phá bung Pháp họ ra từng mảnh vụn, ta đại thắng.
Cao thấp mỗi năm có 1 tỷ
linh, 2 năm này gồm có 4 triệu lấy ở ngục Hắc Ám mà thôi.
Bính Dần – Đinh Mẹo – Mậu
Thình mỗi năm có 6 trăm triệu nhờ đi miền Nam Lục tỉnh sang Cam bốt – Mã Lai –
Nam Dương, 3 năm có 1 tỷ tám linh, từ Ất Sửu 1973 đến quý hội đặng 9 tỷ 120 triệu
linh. Bính Đinh Mậu Kỷ Tỵ 4 năm nay 1 tỷ cộng 10 tỷ 920 triệu là 14 năm độ
linh, sang năm Canh Ngọ tháng này mới có 4 ngàn thôi, kỳ đi Nha Trang đây 03/02
đến 13/02 Canh Ngọ tính số còn thiếu gần 1 tỷ, mới đủ số 12 tỷ linh.
Năm nay xem sao ? Giờ
đang khao ngục lấy linh, chưa biết kết quả ra sao. Năm Kỷ Tỵ thâu 1 số người da xanh rồi, còn số lớn nửa
chưa thâu, kể từ số này sắp tới – số nhất định 12 tỷ, còn thiếu 1 tỷ sẽ đóng
khuôn và tăng số 1 trở lại…
Bỏ năm Canh Ngọ sang
Tân Mùi 1991.
TỊNH HẢI –
ĐĂNG THÁI – ĐỀ TRỤ
Ta đi qua 1 tướng trụ
mà 6 tướng trụ đạo.
Thanh Tịnh Đại Hải – Hải
Triều Âm – Hải Đăng – Thái Thượng – Tu Bồ Đề. Là đời hiện tại là Hải Trụ, tên gọi
là Thiện Tấn, tại gia cư sĩ, ta làm đặng chút nhỏ cho đời sau. Ta qua là 6 trụ
đạo, 6 pháp thân đạo thủ. Mỗi đời ấy sẽ tu cho 500 pháp thân cấu tạo, còn số tồn
trữ gấp cả triệu thân, thí dụ như tiểu kiếp 16790 vạn năm ta có, 16790 ngàn đời,
là 100 năm 1 đời số thân tạo 1 tiểu kiếp, còn 1 kiếp là 1 tỷ 343 triệu 20 vạn
năm, là bao nhiêu đời để biết lấy số đời mình gieo bao nhiêu triệu ức thân, mà
chúng sanh cấu tạo ức ức kiếp thì sao?
Nên chỉ Phật Như Lai thấy
rõ như ban ngày. Nên muốn thành đạo ta phải có số pháp thân Bồ Tát là 840.000
và 720.000 pháp thân thánh mới đặng quả Như Lai. Một đời tu giới lọc đạo trải
qua bảy nhân bảy là 49 đời mới đặng 500 pháp thân Tỳ Kheo tăng mà thôi, một đời
lọc đặng bảy nhân 10 là 70, phải 70 đời mới làm được 500 pháp thân. Suy xét cho
kỷ mà tu, số tạo ra thì nhiều, 10 đời tu được 1 mà thôi, chớ nói ngoa. Ai cũng
cầu Tịnh Độ thì hơi khó vì thân dơ nặng làm sao vào được cảnh Niết Bàn là cảnh
Tịnh Độ mà xem ngán đó, không dễ dầu cho ta đặng như vậy đâu. Phật cho mà ta
không đến được, tại sao chúng sanh không hề biết trước sau, thay vì chúng ta
nhơ nặng, vô minh quá cao đầy nên không biết có đời trước rồi đời hiện tại, qua
lại đời sau cũng quên hết. Người chăm tu thường nhận ra, ít ra cũng 3 đời quá
khứ, tu đắc Pháp thì biết cả ngàn đời quá khứ - ở đâu – nước nào, thân nam hay
nữ, sự làm ăn ra sao cũng biết rõ ràng.
Ta ra đời ở cõi này trước
đến nay, không có đời nào là không làm công đức thập lực. Đời ta ở vào Bồ Tát
thánh là Thanh Tịnh Đại Hải, cũng lập đặng số công đức, sang đời Hải Triều Âm
cũng lập được công đức sánh vào Quán Thế Âm, Diệu Âm Bồ Tát.
Sang Hải Đăng Bồ Tát tuyển
linh ở đời Câu Lưu Tôn Phật số nhiều tới 4 – 5 tỷ.
Qua sang đời Thái Thượng
thì dạy thuốc tiên cõi tiên, dạy thuốc cho trần bên Trung Quốc, dạy địa lý vân
vân… ai cũng biết danh.
Sang đời ông Tu Bồ Đề
tu học cũng qua Trung Hoa chỉ đạo Đại Thừa, và sau đặng thọ ký Bồ Tát đạo chỉ đời
thành Phật vị lai.
Đời hiện tại tự tu và
làm đều ở vào thầm lặng không ai hay biết, mình làm mình hay, phô trương là
không hay.
Vì tự tạo tự thành mới
vui, đời nay ta ở quả Bồ Tát Ma Ha Tát
thọ ký 04/04/1973 Trí thánh nhập Tiểu thánh thành quả rất là mau lẹ chưa
từng có, từ trước tới nay ở đời Pháp tàn mà đặng đạo quả Ma Ha Tát, thọ ký năm
Giáp Tý 1984, có Đại Pháp để độ. Nay có Pháp Vương Tử. Có Pháp Tử Kim số nhiều
vô lượng, và có 7 núi thánh, vô số ức Thánh Ngưu.
Hành đạo quả Bồ Tát Ma
Ha Tát kim thân, chúng quỉ vương chém 8 giờ mà không trúng thì biết Pháp ta rất
mạnh vậy.
Đời nay thắng diệu hơn
cả, cả phẩm và lượng… công đức 1 đồng lớn, 2 vừa, 1 nhỏ, 1 viên ngọc quí, lập
được quốc độ Nam Thiên đưa 1 tỷ linh về độ - Đó là công đức Bồ Tát Nam Thiên đời
ta tạo vậy trọn đủ, chưa tính thành Như Lai Phật. Nay đi bằng vô định – Như Lai
tự nhiên đến, đó là thần thông đạo lực trí tài theo kịp, ngoài đức Như Lai mà
thôi. Ta dạo đi các nước chỉ lễ Đức Như Lai 1 lễ thôi, coi tướng phàm chẳng ra
chi.
Mà Pháp thân ta lại
không ai dám đương, khó có đạo Bồ Tát nào thắng ta được, Pháp Kim Thừa nay chẳng
còn lo sợ, ai khảo, 6 lần khảo rồi…
Thủa xưa ta tu đạo ở
cõi đức Sư Tử Tướng, rồi sang quốc giới đức Sư Tử Âm Phật, đặng đạo Bồ Tát,
sang Ta Bà ngồi trên ngai phía trái của Đức Tỳ Bà Thi Như Lai, qua đây là 6 đời
Phật ra đời, trải qua 91 đại kiếp – đường ta đi cũng trên trăm đại kiếp rồi. Ta
thường hiện thân là thầy dạy đạo các Thiên Quốc, theo hạnh của Phật diễn Pháp
luân thanh tịnh và rưới nước Pháp độ chúng ở đời nay.
Chơn tu vào hàng thánh
chỉ có 1 – 2 vị tăng nhỏ.
Sang đạo Bồ Tát đắc
Pháp lớn, hào quang rộng, các Pháp mới kết ra Thánh Thai và Pháp Tử.
Pháp kết tướng tinh có
nhiều loại, nhỏ có, lớn có. Như thân Bồ Tát hay như tướng trâu bò, loại này có
Thánh Thai ở trong thân.
Ta ở đời hiện ta tu
hành được đắc Pháp rồi, mới đặng đi thỉnh 36 pho tạng kinh, gánh kinh Pháp ở
cõi Phật về, qua các Thiên Quốc, băng qua và gánh vào đất Thánh, qua phước điền
của hàng thánh để độ linh ngã, trụ vào cõi Thánh.
Sau đây số chúng sanh
do ta độ số đó thành quả vô sanh A La Hán, lên tới vô lượng vô biên bằng 12
sông Hằng cho tới 36 sông Hằng chứa cát, mỗi 1 lúa cát là 1 vị Thánh, không ai
có thể lường biết số Thánh của Pháp hội của ta. Hàng Phật Như Lai đời sau của
Pháp A Di Đà số Thánh và Bồ Tát đắc đến vô lượng vô biên.
Viết cuốn Pháp bảo này,
đức đầy đủ, các Pháp của hàng thánh vô sanh lưu đức Bồ Tát đạo vào quả Như Lai
mà đặng Nhứt Thiết Trí Huệ, mà tu rốt ráo đủ 6 Ba La Mật sẽ có đặng Nhứt Thiết
Chủng Trí Huệ, là do đem các Pháp đi độ rốt ráo cho muôn loài chúng sanh mới đặng
Pháp này. Thí dụ thanh văn độ chung tỷ kiếp mới đặng 1 Ba La Mật, Bích Chi Phật
độ nửa tỷ kiếp mới đặng 2 Ba La Mật, Bồ Tát độ 500 kiếp mới đặng 5 Ba La Mật…
Bồ Tát Ma Ha Tát độ 1
tiểu kiếp mới đặng đủ 6 Ba La Mật có trí kiến của Như Lai…
Tân thử bất khả báo, liễu
đắc tri vô ngại
Ngã văn bất khả tư nghì
thuyết giảng.
Thị ưng bất khả nhu nhược
Bất tác, thọ bất cấu,
văn thử kim giai.
Nhứt nhứt vô nan, tri lực
viên mãn.
Như ý hà thủy băng đại
hải.
Trang trí, dung nạp đại
thể
Hườn đạo thị minh khan
thử
Hà đăng viên đẳng trụ giãi
ngộ.
Khai thị ứng cầu bất ư
vọng dã.
Tiên hủ đại nhu, đáo
lai đại xã
Thể tác đại trí, bi
dung vi bổn đại
Thắng bỉ dẹp tắt ma.
Ma sanh, cùng gửi tử -
2 món dữ trên đây.
Ngục sâu nó chiếm đầy
Chúng sanh chẳng bỏ
buông.
Sanh ma quỉ thú muôn,
Ai cũng buồn vì chúng,
Lại không ngăn ngừa nổi
Một người chết qui theo
Thuận đi vào trong ngục,
Vui vẻ mà hò reo,
Trống chuông đưa đến chỗ
Chư thầy kéo chẳng lại
Chuông mõ kéo không nổi
Đành phải chịu buông
suôi.
Còn số chúng sanh qui
theo đạo
Do thân ta lãnh trách
nhiệm
Độ họ mà trải qua số kiếp
lâu xa
Ta vẫn nuôi dưỡng và dạy
dỗ.
Cho đến khi thành quả vị,
Đâu phải lãnh ấn đưa
lên đã thôi đâu
Họ lấy gì để sống trong
lúc đầu, giữa và cuối…
Bồ Tát phải lãnh cả
song họ qui, mà không y theo cho có chớ họ chẳng cần đến mình độ, nên vì đó họ
qui theo để dò lòng với nết xem xét hành vi…
Chấp tại gia dột nát,
thật ra họ mù chớ họ không sáng, bởi họ không thấy được Pháp của mình, họ đâu
có hiểu gì là Pháp, gì là độ, lấy gì để độ, nên họ rất khinh thường, coi mình
như cục đất không hơn không kém.
Nếu họ thấy được Pháp
thì họ theo, rất là khít khao. Họ tưởng rằng ta chỉ biết nói đạo chớ không hơn
gì họ, do đó họ mới khinh lờn, buông bỏ.
Như Lai xưa cũng vậy,
thâu món trược ngã, nên nói đạo mà họ còn bôi bác, nói phải ân cần rằng cớ sao
nói đạo mình sâu mầu, nhiệm mầu, rốt ráo, vào chỗ tịch diệt mà họ nghi lầm. Lại
không được, bởi họ còn ngoài vỏ, họ đã nói đạo họ đắc và đắc cái gì? Đắc món
nào mới là đắc, tu lấy gì, đắc Pháp gì, được Pháp gì… Cứ tưởng họ sẽ thành Phật,
thiệt ra chưa được.
Mấy ông tưởng thành Như
Lai rồi đã được diệt, nay lại nói chỗ các ông đi, chỉ đặng quả vô sanh chớ chưa
đủ đức để diệt độ.
Phải tạo đủ 32 tướng tốt,
80 vẻ đẹp, 3 pháp thân sáng, 8 đạo giải thoát, có 840.000 Đại Bồ Tát, có
720.000 thánh tăng, 34 tỷ thần thiên nhơn, có đủ lực thần thông, có đại trí huệ
vào đại thức giác, 6 Ba La Mật, 4 trí cho Bồ Tát và tăng, 4 tướng nhiếp pháp, 4
vô úy – có đại Tam Muội, trăm ngàn pháp Đà La Ni, 18 pháp bất cộng thần thông đạo
lực.
Thần trời qui phụng lễ
lạy cúng dường, 10 phương chư Phật ca tụng công đức. Họa may đặng thành Như
Lai. Có pháp thân kim cang vàng đẹp, di chuyển bằng vô định vô niệm, gọi là tự
nhiên là như – đến là lai. Đến không thấy đi, không thấy về mà ở tại nhà, sức
thần thông bén nhọn như vậy.
Bồ Tát cũng đi như vậy,
không đi mà đến, không thấy đi, do chúng sanh niệm, chúng sanh tỉnh si mà tin đủ
sẽ đặng phước đức nhiều, ai không tin thì ắc bị nghèo nàn, đây đường tìm đạo
khó tin và khó hiểu, người tâm trược ắc khó mà ngộ, ai con cháu Di Đà nên học
cuốn đạo này chắc không vô ích vậy.
Tu thế nào được, thế
nào không được. Phải suy xét cho ra…
TU CHƠN
Mở huyệt đạo nơi thân.
Nhất là vấn đề ở giữa 2
chặn mày, ví như đầu cắt làm 2 nửa, cái đế nằm chắn ngang bưng kín 1 nửa, nửa
trên là cái nắp úp vào thành cái đầu. Mở cho thành cái lổ lớn mới chuyển 4 đại
đất nước lửa gió băng qua đế rồi lên cửa đãnh, rồi duyên về điển để lấy 4 quả đạo
thánh là quả Thánh Nhẫn vào Đại Thừa Bồ Tát.
Cửa huyệt này là của Bồ
Tát và của Như Lai. Chuyển pháp này xong mới thâu ánh sáng của mặt trời để lấy
quả Không Tánh thuộc Bích Chi Phật gọi là Duyên giác đạo.
Đặng quả này rồi mới
chuyển hồn ở trong thân phàm đi lên qua đãnh mới thật là giải thoát đạo. Pháp
thân được băng qua cửa đế này thì quả vị Bồ Tát đi đến đẳng giác Bồ Tát là 11 địa
đạo của hàng thánh Bồ Tát, là cục đường của Đại Thừa.
Tu mà Pháp bay ra ở Cửu
Khiếu thì không thành đặng quả Bồ Tát, cửa này của thanh văn tăng. Các cửa huyệt
từ theo xương sống thì có sẵn, chỉ niệm đúng huyệt là pháp khí bay ra ta duyên
về diễn thánh mà kết thánh thai, pháp tử. Bánh xe lọc Pháp đạo quả đều là tại
đó cả.
Có các loại Pháp vi diệu
là lọc xong kết đạo quả ta có 6 căn đạo – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – kết
làm 6 quả tròn sáng, gọi là lục bửu, sáu cái báu, kế sau kết quả Pháp tánh gọi
là 7 báu, 7 đạo phẩm.
Tu hành nói thì nhiều
mà tu đạo chỉ có như đây để vào chánh trí đạo. Quả trí kiến gọi là quả đại kiến.
A La Hán có 4 đại
Ngũ thông có 5 đại
Bồ Tát có 6 đại
Như Lai có 7 đại
Quả của Như Lai là quả
Đại Thức Giác.
Quả Tứ Đại, quả Không
Tánh, quả Đại Kiến, quả Đại Thức Giác. Đó là đạo quả Phật thừa.
Vào đại đạo Bồ Tát phải
trì sắc Pháp Ba La Mật, gọi là Pháp trí huệ mạng, là thân sáng như điện trời, gọi
là 3 thân sáng. Giới Ba La Mật là cho đủ cả 6 căn, cho thanh tịnh, bố thí cho tất
cả không tiếc 1 món gì, gọi là thí Ba La Mật.
Nhẫn nhục Ba La Mật, phải
nhẫn từ lời nói bên ngoài, các lời lẽ hoặc của mình hoặc của người. Các việc
làm hoặc mình làm hoặc người làm, ý xét suy cho thật là kỷ lưỡng, ghìm ý tự nhận
cho đủ mới dám làm…
Tinh tấn nghĩa là không
đặng quên, phải tự che ngăn. Sang thiền và định cho đúng đường đi.
Bồ Tát tu đặng 5 Ba La
Mật, Như Lai tu đặng 6 Ba La Mật là quả trí huệ, quả này tột hơn hết.
Như Lai có 6 Ba La Mật,
32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, 6 thần thông, 4 món vô uý, 4 món nhiếp Pháp, 18 Pháp bất
cộng, có đủ 10 trí, 100 phước tướng trang nghiêm, có đại Tam Muội, pháp thân
Kim Cang, muôn ngàn tổng trì Đà La Ni.
Có 3 loại Pháp tướng:
Tướng Dê cho Tăng
Tướng Hưu cho duyên
giác
Tướng Trâu cho Bồ Tát
Trâu trắng là của Như
Lai. Xem để biết mà lo tu chứng lấy.
Muốn đắc quả trí huệ phải
thọ 6 Pháp Ba La Mật, mà duyên theo giới: Thí, Nhẫn, Tinh Tấn, Định – mới có đặng
Huệ trí chơn rồi mới kết đủ đạo Đà La Ni mới giải được Tam Muội, là lửa mát – lửa
Pháp cũng gọi là lửa thiêng.
NÓI KINH LÀ
NÓI PHÁP
Tu đắc Pháp, lời nói có
Pháp bay ra theo lời, là Pháp kết thành lời nói, có nghĩa dụ của câu nói, ai
nghe Pháp nhập tâm cơ thì nhờ đó mà đặng ngộ, có lẽ là hiểu biết đầy đủ, vì câu
nói đã nằm tại tâm và tại căn, mà tự đó chẳng hề quên.
Lời tiếng của chúng
sanh loãng mỏng, lời nói của người tu đắc Pháp thì đặc và cứng, không có thất tán.
Lời nói của chúng sanh
ra hư không rời rả vụn vặn, nên nói sai sám hối không hết, vì lẻ tẻ không gọn.
Hàng tu vào A La Hán đạo,
gọi là độc giác đạo, chỉ cho số nhiều, hàng pháp sư Bồ Tát, đẳng giác đạo cho
nhiều lớp.
Hàng Như Lai – chánh
giác đạo, chỉ cho hàng Bồ Tát vào Phật chánh đẳng chánh giác.
Có 4 lớp Phật:
La Hán Phật
Bích Chi Phật
Bồ Tát Phật
Như Lai Phật
Đời nay ta hành đạo nhờ
bầy Thánh Ngưu, đi vào cõi âm, vét hết màn tối tăm mới thâu đặng linh.
Mỗi lần đi đem 15 đến
30 ngàn ông Thánh Ngưu, dàn hàng ngang mà đi xuống ngục Tam Đồ, sừng của chư ông phát ra
hào quang sáng như điện trông rất đẹp, vô minh kết vào thành cục như gò mối,
chư thánh đưa sừng chém 1 phát là tan.
Xem các thánh đến chổ
nào độc nghiệp hiện ra thì ra sức phá, coi như bầy trâu trần trọi nhau. Có ụ lớn
thì có 10 – 20 ông xúm lại chém.
Cổ lai chưa có ai hành
đạo như ta, hiện nay các kinh đều không thấy nói. Ta đi trong âm địa thường cởi
lưng Thánh Ngưu mà đi, nhanh như gió.
Đời nay ta độ số linh
lên con số hàng tỷ, là nhờ chư Pháp Bồ Tát hiện ra làm mới nổi đây.
Xưa mỗi vị Bồ Tát chỉ
thâu vài chục ngàn linh là cao, đời nay ta độ khác xưa rất xa.
Xưa các ngài tu có chút
Pháp Kim Cang đã cho là cao, và nói thao thao, thiệt ra hàng A La Hán pháp nhỏ
có làm gì ra việc lớn.
Có cuốn các ngài nói dao bén nhọn,
sắc cắt gì cũng được, thực ra chưa chém đã lụi gãy vụn rồi. Xưa lại ta thấy họ
tu vào quả thanh văn là cao, không có ai mở cái huyệt đạo chắn ngang mày, để
sang Đại Thừa, mấy vị tổ sư cũng là A La Hán chớ có ai thành Bồ Tát đâu, nếu
thành Bồ Tát thì số linh cao còn ứ đọng dày đặc hầm như xưa lại chưa ai lên.
Con đạo ta lo tu lấy
Pháp lớn mới vui, pháp thân lớn mới khỏe, không ai bẻ gãy ta được.
Tu đắc Pháp lớn chỉ có
Phật thấy ngó là đủ rồi, Phật thọ ký cho mới là chơn thiệt. Đời ta
tu trọn, thỉnh số kinh Pháp ở cõi Phật 36 pho tạng kinh về độ, phải có 36 tỷ
linh mới đủ số để vào hàng thanh văn đạo, đời nay chắc không làm được đủ số.
Đạo ta tu ở thân thanh
tịnh Đại Hải cũng đắc Bồ Tát, sang đời sau là Hải Đăng Bồ Tát, đời sang tu
tiên, thân ta là Thái Thượng Lão Quân Bồ Tát, đời kế đây là Tu Bồ Đề mới được
thọ ký đạo Bồ Tát ở thời Thích Ca Như Lai. Sang đời hiện ta đức ông cho tên là
Hải Trụ, ở trần, bà Tín xin ông sư cho Pháp danh Thiện Tấn.
Đời nay ta tu vào Bồ
Tát Ma Ha Tát, thọ ký 1984 Canh Tỵ, có Pháp Vương Tử, có Thánh Thai, vô số Pháp
Tử.
Hình
3 vế
Chuyển hào Quang.
Thân ta trụ.
Ta trụ chuyển hào quang
bay ra in như đây.
Xem cho đủ, hiện ra vô
lượng.
Ta có 7 quả báu này và
vô số quả khác. Vào hư không rộng bằng trái địa cầu.
Quả Bồ Tát Ma Ha Tát
chuyển ra ngày 27/02/1987 Đinh Mẹo.
Đêm nay rất vui.
Trừ các Đức Như Lai, còn ta không thua ai, bất cứ loại Bồ Tát nào.
Ta – Bồ Tát chuyển đặng
Pháp luân thanh tịnh và Pháp luân bất thối.
Vốn đạo của thầy như
đây, các đệ tử hãy tin đây mà siêng tu, các em cũng sẽ đặng như đây, các em đừng
lo.
SỰ TU HÀNH TẠO ĐẶNG CÁC
QUẢ NÀY RẤT KHÓ NHỌC.
Quả vô lậu này của Bồ
Tát.
Pháp ta đặng, đức ông
ta rất hài lòng.
Lấy quả chơn mà độ
chúng sanh .
Người tu chơn lọc Pháp
Làm Pháp mình lớn
Chuyển ra độ chúng sanh
Con cháu hệt như vậy
Bồ đề sẽ về ta
Ai cũng làm như đây
Chẳng ai không thành Phật.
27-2 Đinh Mẹo
Nam Thiên
A Di Đà
16-08-1987
Ai cũng cầu quả này
Phóng đi mấy chục ngàn
cây số.
Cuốn Pháp ta viết –
Pháp ta.
Nằm kín trong đây
Học xong rồi, gìn giữ để
trong nhà.
Làm ăn rất an vui,
Thủ thắng hơn cả,
Con cháu đều an lạc.
Không có các khổ báo.
Không có ma quỉ gần.
Có chơn tu gắn thâu.
Quả vô lậu sẽ đến.
Thấy làm Pháp bay ra
Đạo quả này bao trùm
Cả cõi hư không.
Vái chơn thật là đây
Không có đâu cho quả lớn.
Làm như đây của ăn vật
mặc dư thừa.
Thần thông du hí cũng ở
đây mà có.
Phải làm cho có được rồi mới nói ra được, đừng
nói chưa được, nói được là dối long, tu không chứng mà sanh khổ cho bản ngã của
mình.
Lòng phải chơn thật
Đừng vì dối lòng
Đắc Pháp rồi mới tự do
Tự tại không hề phải luồn
cúi.
An lạc vô úy hơn mọi
người.
Tu đắc đại Pháp khi các
Pháp đã viên, thành tựu Pháp Tử bay ra đầy trong hư không, như cát trụ giữa hư không
.
Tháp trụ, tháp nhứt trụ,
mỗi trụ như vậy đầy khắp không ai đếm hết.
Mỗi trụ 10 vị thánh trụ
ở một chơn đế.
Tu hành xem đây mà tìm
đạo.
Trụ chánh giữa, ngồi đó
thấy vô lượng kiếp lâu, mà như ở trong hiện tại, mà thấy cả vô lượng kiếp, coi
như trước đó 5 phút, đi lâu xa mới đặng về cội.
Nói Pháp vô lậu thanh tịnh vô úy này. Vô lậu khó nghĩ khó bàn, bất khả tư nghì Pháp, nhứt thiết đều vi diệu, trí huệ sáng, soi thông đi các cõi trong 10 phương, làm thanh tịnh các cõi đất chúng sanh, trong các cõi đó nhận Pháp vui vô úy, đều đặng thêm tin về, mà đắc quả số nhiều đến vô lượng đắc Pháp và giác ngộ. tinh tấn vào đại nhẫn, siêng tu vào Phật thừa, chơn tâm rất thanh tịnh, đắc quả đạo vô lậu, vào đặng quả Pháp tánh, do đức tin nhận thọ vào huệ của các Pháp chơn như, có thần thông, đặng Đà La Ni, chuyển Pháp luân bất thối đạo. Đạo vô thượng tịnh thanh êm diệu, sống lâu mà thọ lượng, vô lậu thông bạch suốt thấu đến vô biên, thấy xa vô tận cõi, xuất nhập rất tự do, Pháp thân rất thanh tịnh, trang nghiêm bằng Kim Cang, sống lâu không mòn mất được, đạo giải thoát chơn như đi vào vô sắc giới mà trụ cõi hư không, vi diệu rất sáng suốt, thân mạng tướng hào quang, không có hiện căn thân, không dùng sắc thinh hương vị xúc pháp, trụ nơi vô sắc tướng.
Pháp thân đều sáng đẹp,
Đi bằng Pháp vô định
Không phải ngồi thần đế
Mà dạo đi mười phương.
Pháp Tử bằng kim cang
Bay ra đầy hư không
Chuyển thân lớn tay dài
Trụ lại tại hư không
Đưa tay đến địa ngục
Mà nâng lấy chư linh.
Lấy thiên nhẵn mà rà soát địa
ngục.
Thân đều hiện sắc vàng
Tướng tinh rất đẹp đẽ
Oai đức thuần diệu từ
kín khắp
Chơn là đắc đại Pháp –
nói Pháp thiên thần
Thiên chúng tin ưa
nghe, Phật Pháp đều tin về
Thương mến chẳng tính hết.
Thời tu đắc đại pháp
Trí huệ rất sang sạch.
Đi lại bằng thân biến,
chỗ xa đi chỉ một sát na, đã đến tận nơi, gọi là đại thần
thông.
Không đi mà đến, có mười
phương như gần một bước.
Sự nghe cũng rất là gần
mà lại xa, ở đâu cũng đều nghe biết.
Biết tâm niệm của cả thảy
chúng sanh, dùng tri kiến phân biệt rất đầy đủ, chẳng món nào che dấu, thấy biết
nói như thật lòng chúng sanh, chú vì ưa muốn ta đều biết được đó, lòng suy nghĩ
thiệt hay dối đều thấy biết rõ. Quán biết trong trời đất có sự gì, thay đổi
sách lược của vũ trụ diễn ra, thay đổi Pháp cũng đều biết trước đó. Đời nay và
đời sau chúng sanh thay đổi lớp, sanh lên hoặc sanh xuống đều biết được cả.
Số linh sắp được độ rơi
rớt biết bao nhiêu cũng đều biết được cả.
Số thú cầm đặng tăng
phước cũng đều biết đủ. Chúng sanh đi trả quả cũng đều biết cả. Người thọ mạng
dài lâu, hay hết tuổi thọ sanh về tại cõi nào cũng đều là biết được.
Đạo của Bồ Tát duy trì
làm cho vào đạo Nhứt Thiết Chủng Trí huệ của Như Lai đặng vào huệ thanh tịnh của
Như Lai, đặng Pháp đó rồi khi nhập vào thì thấy mình chỉ là ánh sáng của hào
quang, chớ mình không có tướng, thân không thấy có mắt tai mũi lưỡi gì cả.
Khi đắc đại đạo Bồ Tát
y áo tự có vô số Pháp như ý trí hiện ra, vô số kho chứa đầy các thứ vải đủ loại,
bánh trái đóng hộp đẹp, thứ lớp đóng hộp đầy tủ, cũng dùng giấy làm thành bao
đựng, không ai nào có thể rõ hiểu vì sao.
Không có làm mà sao lại
có đặng như vậy.
Nói Pháp vi diệu, chơn
ngã, thấy tướng bổn lai.
Thấy thân mình trãi qua
vô số đời kiếp, có thể nhiều hơn số cát hột của tám sông Hằng. Như Lai ngài thấy
rỏ đời kiếp và hành nghiệp của cả thảy chúng sanh, như ta cầm kính viễn vọng mà
soi qua chỗ kia để biết nơi đó.
Bồ Tát tu hành lâu xa mới
đủ định huệ vô thượng ngộ giác – thọ - trí vô biên liễu thị giác bổn lai du hý
tự tại viên mãn. Các pháp vị bổn hý lai, nhứt thiết tự tại giác trí liễu kiến
ngộ trí Phật. Phật suy so lường liễu ngộ lý tánh.
Khan tập Tam Muội dĩ thọ,
dĩ kiến năng khai khám phát từ tâm, diệu thể trang nghiêm vi bổn, thâm uyên thọ
dụng, dễ ly trược lậu, khả thủ giai chơn Bồ Đề kiên cố bất ưng vọng thức, thị
thinh chơn thiệt – vi tằng hữu – khả vô số sở đắc, nhược hữu nhược vô căn viên
nhất giải, hữu trược hữu dã, nan khai kỳ tâm, nhứt thọ kỳ trí, dĩ dung khải
minh, thị kiến đằng đẵng, bất khả diễn giả, kim giai thị hiện – kiên có báo
thân – vi diệu, tánh quang – Phật đa hữu pháp.
Chúng sanh phi pháp – hữu
dã – bất vi thọ chơn – ưng thọ dã – nhu nhược – thọ vô minh – thọ - sanh, thọ tử
trí lậu tâm mạng trược sanh nhơ nặng, điên đảo tham lam, thọ báo phiền nảo địa
ngục. Đạo phổ hoằng thâm – nhử - cáo – văn giai – như thị tự tại, bất khả thuyết
giải.
Định xuất tự tại, bất
ưng khai ngôn, sắc danh vi cường, phương tiện tùy nghi, tiên khai đạo sử phóng
ngôn dĩ giáo, chúng đại ngộ viên mãn – tự tại bất khả ngôn thuyết – phủ đạo
chúng ngộ.
Không còn có danh tự,
không còn ngôn giáo.
Còn nói là chưa rồi. Đạo
không chỗ nói.
Nếu hiểu chánh Pháp là
bất ưng động tác, hà huống phóng ngôn.
Chơn tu
Gắng thọ đạo, đi sâu
vào đạo tri kiến của Phật Như Lai, siêng năng trì Phật thừa. Phải tinh tấn suy
xét kỷ càng, mà trì sáu Ba La Mật mới vào được trí Phật.
Trì giới đạo đủ cả sáu
căn cho trọn đủ, mà bước vào đạo Bồ Tát rốt ráo.
Không giành lại món gì
Nhẩn nhục rất đầy đủ.
Tinh tấn không buông bỏ
Vào thiền định cao
thâm,
Xét lại các lỗi lầm
Suy nghĩ định cho ra.
Siêng diệt cho tắt tiêu
Trọn năm Ba La Mật
Vào huệ Ba La Mật
Đạt Nhứt Thiết Chủng
Trí
Huệ mạng cao vô thượng
Lấy trí tướng thanh tịnh
Không dung đến căn mạng
Mà nhập vào chơn tâm
Đây trụ vào vắng bặt
Không trụ cõi Niết Bàn.
Giớ Ba La Mật là kiềm
giữ vào chánh giữa, không cho đi lệch lạc, tức là không
nói dối, đơm đọc, vọng chấp, tham lam, sân giận ngạo mạn, chửi bới, oán thù phá
tán, say sưa, lừa đảo thù ghét, hiềm khích, chê bai, tị nạnh, khinh chê, xu nịnh,
lăng chạ, mê hoặc, dụ dỗ, đánh đập, gian dối.
Các độc có vô số, kể ra
không hết.
Giới này khó lường lắm mới qua,
đây nói sơ chớ chưa hết.
Khế thủ bao dung có ai
làm
Đức đầy đạo quả dứt mối
tham
Hạ liệt cho nhiều có
cái ta
(cái ta có nghĩa là
pháp thân vi diệu, sáng đẹp có đủ 32 tướng tốt)
14/02 Hành đạo tiếp
linh ở Nha Trang, đưa về đạo tràng có 840 linh, số còn lại sẽ tiếp sau.
21-22/02 Pháp thân đang
giảng đạo tại đó, ta sẽ rút số anh chị em ở tam đồ lên độ
50 người, mỗi một mới lên một thêm còn một lần sau sẽ đưa lên.
20/02 Ta rải Pháp lớn ở
biển Nha Trang, ta vì nghèo không ở lâu độ được, các linh lên họ khóc lu bù, vì
lâu đời chìm thọ trong ngục, thân hồn chư linh gầy gò đáng sợ, xương bọc da. Ai
thấy đặng chư linh cũng phải thương vì gầy xác sơ không y áo, tóc dài, có người
già rụng hết cả tóc.
֍֍֍
Giải Về Sáu Pháp Ba La Mật :
Để vào trí kiến Phật, giới giữ đủ: Thân, Khẩu, Ý, thêm vào sáu căn thân, giữ tròn bản thân mới đi vào bố thí rốt ráo.
Cho đến thí cả thân mạng, xương tủy, đầu óc, máu, ruột
gan…
Nhẫn nhục cho đủ tinh tấn – nghĩa là liên tục.
Thiền định xem xét có lỗi lầm, mới vào huệ trí của Như
Lai.
֍֍֍
Trừ bốn tướng nhơn
chúng sanh thọ dã ngã.
Nhơn kiến, chúng sanh
kiến
Thọ dã kiến, ngã kiến.
Lìa bốn tướng này mà đắc.
Pháp Tử Đại Viên Thông
Vô lượng kiến đời nay
Độ cả thảy chúng sanh
Chỉ Phật biết thấy được.
֍֍֍
Lực sách lược cẩm nang
của kinh điển thấy từ lúc ban đầu, giữa và cuối.
Trong kinh lúc đầu nói:
Công đức thành tựu đem ra hành là chuyển Pháp độc cho các cõi và tăng đạo quả
cho đệ tử, gọi là thọ ký đạo, rồi nói các loại vào việc tu vào các Pháp cho mỗi
lớp Thánh và chỉ dặn theo phương thức đi vào phần sâu, phần rộng và tu phải dụng Pháp gì
mới loại trừ các độc, rồi đi sâu vào Pháp gì, lấy Pháp gì hỗ trợ để đi sâu vào
Phật tánh và chơn huệ.
Thực ra dung danh tự để
chỉ cho tu hành, chỉ là phương tiện mà chỉ vậy.
Dung danh tự giả, còn
Pháp mới là thật, không có tên gọi.
Lấy Pháp ra mà nói là
không có dung vào tên và chữ nghĩa, Pháp không có danh – gọi là Bất Ũng Động
Tác, hà huống còn có tiếng tăm.
Cái chơn thì không mất,
không hao tổn. Ai xem phải nhận nơi đây mới biết đạo.
֍֍֍
Các Pháp không có ngăn
ngại, tất cả đều thông suốt.
Thí dụ trái đất này là
cục thép đặc cứng mà Pháp vẫn qua lại, không có chướng ngại.
Thí dụ trên đất Thiên,
cả tam đại Thiên cũng là cục thép sắt đặt, Pháp cũng băng qua lại không hề vướn
mắc. Đó là chơn Pháp, không vật gì qua được các Pháp cả.
Người nói đạo không thể
dụng vào Pháp nào mà nói cho được.
Đức Phật chỉ dùng phương
tiện để làm như vậy, tu như vậy, diệt như vậy, niệm như vậy, tinh tấn như vậy,
thì sẽ được như vậy.
Cho nên nói tu là chẳng
phải tu,
Đắc là chẳng phải đắc,
Mới nói là không đắc.
Không có chỗ nói, lớn
cũng không, nhỏ cũng không, sạch cũng không, dơ cũng không, cao cũng không, thấp
cũng không, dày cũng không, mỏng cũng không, cứng cũng
không, mềm cũng không, nóng cũng không, lạnh cũng không, già cũng không, non
cũng không, đi cũng không, lại cũng không. Bất động yên trụ cũng không yên trụ.
Nếu ai đi trong Pháp
mình có mới thấy được ý mầu của lời nói ra ở đây.
Trụ đây, chúng sanh chỉ
một niệm cầu ta ở lại nơi đó mà không thấy ta đi, xong cũng chẳng thấy ta về.
Mà ta lại yên ở trong
nhà, bất luận gần hay xa, có ai cầu, họ niệm đến danh mình là có ứng ngay, chưa
đầy 1 sát na. Ai có được vậy mới biết lời nói ở đây không dối, nếu ai còn nói đắc
thì còn chưa đắc gì hết, nói sơ sơ ví như đứa bé mới tập đi tập nói thôi, chưa
ăn nhằm gì cả.
Ai người thọ Pháp lâu đời
làm đạo Bồ Tát trải qua lâu kiếp mới biết được việc này, còn các chúng nhỏ mọn,
tu chùa được gì mà nói tôi đắc, khác chi mới sanh lọt lòng mẹ rồi nói ra đặt lời,
cống cao ngã mạn, chẳng ai muốn nghe.
֍֍֍
TA DẶN ĐẠO
Các em trong Pháp nhà
tu hành cho thông suốt, đừng nên buông lung, khoe khoang là không nên.
Phải thật là kín đáo,
không cho ai hay biết sự tu hành mình có. Nếu ai cần chỉ nói cái hạnh đạo, là
ta muốn cầu đạo, phải âm thầm kín mật, xin cho vài ba câu để thọ.
Ta nên nhẫn, kín tiếng,
gìn giữ bản thân cho sạch, tránh các ác, không gần ngoại đạo, không học tà đạo,
không học giả thuyết của người, không ham ưa bất cứ món gì.
Yên lặng ngồi nhiếp
tâm, không a dua đua đòi … ngoại tình, mời mọc.
Hạ liệt cho nhuyễn năng
chuyển đạo …
֍֍֍
MONG CẦU
Mong cầu thành tựu tâm
thanh
Mong cầu đạo đủ pháp
lành thần thông
Mong cầu gặp lại chủ
ông
Mong cầu pháp thánh
chuyển về thành kim.
Mong cầu chánh Pháp đủ
duyên
Mong cầu liễu ngộ Pháp
thiền tiêu diêu.
Mong cầu Phật pháp cao
siêu
Mong cầu chánh Pháp diệt
nhiều vô minh.
Mong cầu Bồ Tát thánh
hiền
Mong cầu dập tắt đảo
điên cho phàm.
Mong cầu sanh chúng dứt
tham
Mong cầu sanh tử tiêu
tan một lần.
Mong cầu cho chúng đủ
căn
Mong cầu cầu đặng đạo
vô sanh hội về.
Mong cầu pháp tánh dứt
mê
Mong cầu đắc đạo Bồ Đề
cao thâm.
Mong cầu đạo pháp toàn
chơn
Mong cầu độ chúng siêu
thăng đủ đầy.
Mong cầu cho các chư thầy
Mong cầu chỉ đạo Phật
thầy đã ban.
Mong cầu chánh Pháp phải
kham
Mong cầu ghi nhớ đêm
ngày không quên.
Mong cầu tu đạt Pháp
thiền
Mong cầu đại định, nhân
duyên dứt lìa.
Mong cầu toàn giác,
không mê
Mong cầu tiêu tắt lời
thề ái ân.
Mong cầu lưỡi miệng phải
câm
Mong cầu trí kiến cao
thâm Phật thừa.
Mong cầu đắc đạo huyền
cơ
Mong cầu biết đủ thiên
cơ nhiều đời.
Mong cầu pháp tánh cao
ngôi
Mong cầu vô định Như
Lai diệu từ.
Mong cầu các Pháp chơn
như
Mong cầu du hí Phật thừa
mười phương.
Mong cầu các Pháp thành
công
Mong cầu cho chủ nhơn
ông đắc thành.
Mong cầu Pháp tử thành
kim
Mong cầu công đức thánh
hiền thêm tăng.
Mong cầu cho đấng phước
nam
Mong cầu tu đạo bước xa
cho nhiều.
Mong cầu thần lực cho
nhiều
Mong cầu đắc đạo mà dìu
dắt nhau.
Mong cầu vàng thật
không thau
Mong cầu chánh đạo lo
lau học hoài.
Mong cầu đừng đứng đợi
ai
Mong cầu quyết trí miệt
mài bước đi.
Mong cầu chớ có phân bì
Mong cầu đạo đủ mới đi
độ người.
Mong cầu đừng sợ chê cười
Mong cầu duyên tới người
người độ tha.
Mong cầu nhớ lại mẹ cha
Mong cầu cho đắc, cứu
bà cứu ông.
Mong cầu nội ngoại, ân
nhân
Mong cầu lo lắng cho
cân thăng bằng.
Mong cầu tế độ họ hàng
Mong cầu bạn hữu nhà
nhà độ lên.
Mong cầu chớ có ngồi
yên
Mong cầu hóa độ phải
duyên thăm dò.
Mong cầu đắc Pháp khỏi
lo
Mong cầu gần lửa nóng
đau chỗ nào.
Mong cầu nước biển dâng
to
Mong cầu nước lớn khỏi
lo thân chìm.
Mong cầu cho chúng yên
bình
Mong cầu bốn đại phải
duyên cho đều.
Mong cầu ăn ít nói nhiều
Mong cầu chênh lệch phải
thì bịnh đau.
Mong cầu tiền túi không
khâu
Mong cầu rơi rớt biết
đâu mà tìm.
Mong cầu muốn thuốc
không tiền
Mong cầu bịnh não đâu
liền khỏi ngay.
Mong cầu tu phải tịnh chay
Mong cầu phước đức
trong tay vững cầm.
Mong cầu hết phước khóc
thầm
Mong cầu ăn ở lạc lầm
phước tiêu.
Mong cầu như bỏ bùa yêu
Mong cầu gần gủi phải
siêu mấy hồi.
Mong cầu chung chạ chớ
chơi
Mong cầu gạo thóc đủ
vơi kho đầy.
Mong cầu chớ vội làm thầy
Mong cầu danh lợi có
ngày cũng tiêu.
Mong cầu cõi thế bùa
yêu
Mong cầu xa lánh bủa
chiều thích nghi.
Mong cầu dọn đạo mà đi
Mong cầu lê lếch có khi
ăn đòn.
Mong cầu nghiệp báo có
còn
Mong cầu giá đắt phải
hoàn bao lâu.
Mong cầu phước đức bao
nhiêu
Mong cầu như thế đã nhiều
lắm bao.
Mong cầu phước đức dồi
dào mới vui
Mong cầu thấy kẻ què
đui
Mong cầu vô phước mới
ra thân tàn.
Mong cầu ngó thấy nhãn
tiền
Mong cầu gìn giữ đạo hiền
khít khao.
Mong cầu dù có thế nào
Mong cầu đứng vững chớ
siêu lòng vàng.
Mong cầu ngó thấy họ
hàng
Mong cầu ăn nói nhẹ
nhàng thương yêu.
Mong cầu suy xét cho
nhiều
Mong cầu lợi ích ta thời
cầu xin.
Mong cầu đạo pháp phải
tin
Mong cầu buông bỏ thì
chìm vô hang.
Mong cầu dứt mối gian
tham
Mong cầu phước báu,
không làm ăn dư.
Mong cầu việc ác đừng
làm
Mong cầu không cãi, đừng
bàn mới vui.
Mong cầu trăm họ qui hồi
Mong cầu thôi đứt cái mồi
tham lam.
Mong cầu gìn giữ đức
lành
Mong cầu thọ báo đặng
thành ấm no.
Mong cầu tại nạn đều
qua
Mong cầu phước đức nhà
nhà an khang.
Mong cầu trăm họ bình
an
Mong cầu dứt bịnh nhà
nhà thương nhau.
Mong cầu trinh tiết làm
đầu
Mong cầu chung thủy
làm người đáng khen.
Mong cầu đứng thiện thế
nhân
Mong cầu thăm hỏi ân cần
giúp nhau.
Mong cầu tiền túi chất
cao
Mong cầu cứu tế cho
nhau khi cần.
Mong cầu tình nghĩa
tương thân
Mong cầu cô bác một nhà
tâm khai.
Mong cầu có đạo Như Lai
Mong cầu học đạo đừng
hoài ngủ trưa.
Mong cầu ta nên phải ngừa
Mong cầu dành lấy thì
giờ lo tu.
Mong cầu khờ dại thì hư
Mong cầu tu đắc cho hồn
đi ra.
Mong cầu lâu kiếp đã qua
Mong cầu làm quỉ, làm
ma nhiều đời.
Mong cầu đọa lạc lâu rồi
Mong cầu giác ngộ, đời
này siêng tu.
Mong cầu muốn được chơn
như
Mong cầu lìa dứt tham
sân mới rồi.
Mong cầu trụ thế ở đời
Mong cầu nhẫn nhục chịu
nhiều tiếng tăm.
Mong cầu có chúng tị
ganh
Mong cầu hạ liệt ăn năn
cuối đầu.
Mong cầu nợ trả xong rồi
Mong cầu sám tội tu
hành mới cao.
Mong cầu khó nhọc biết
bao
Mong cầu đừng nản mới
vào chơn như.
Mong cầu có dư thừa nhiều.
Mong cầu đạo cả cao
siêu
Tu Phật mà dìu dắt
nhau.
֍֍֍
Có lắm người tu mới được
xuất hồn, thì còn tu nhỏ chưa đủ lớn, mà ham ưa bay nhảy, thường bị ông Ba Tuần
bắt mất tiêu, chúng đem về rút hết tinh khí là thân ấy nằm lăn ra chết mất, hồn
xác phàm mất chủ cũng chết theo – Ta dặn phải cẩn thận.
Các em đạo lúc tu, lúc
muốn đi đâu, dạo vào cõi nào cũng niệm danh thầy để ta về đưa đi, đừng đi một
mình chúng thử Pháp là mệt.
Đi có thầy thì không có
ai dám quấy, đi sang các cõi kia chúng hay đến làm dữ. Tu cho Pháp lớn, pháp
thân lớn, có đạo quả thọ ký rồi mới đi được, Như Lai chưa thọ ký thì đi phải có
thầy đưa đi.
Thầy của các em thế
này, coi là rất tầm thường, mà chuyển Pháp ra là sông núi cũng bị lở hết, ta
đưa cả nước trời đi được.
֍֍֍
Khán thử kim giai, tâm
thọ lượng
Bảo trì vô tự, tức tâm
khai.
Bất kiến vô thử bảo
Pháp thanh.
Như đắc vô cấu vốn chơn
như
Ứng liễu vô biên, tư kiến
tạo
Nhứt nhứt vô biên, vô đẳng
luân.
Thị kiến vô vi, nhứt
trí thành.
֍֍֍
NÓI NIỆM GIÁO – ĐỐN
GIÁO
Niệm giáo là cắt rể, đốn
là chặt cành.
Trong hai món, món nào
rốt ráo là bứt rễ, món nào không bứt gốc là chặt cành, tức là không rốt ráo,
làm một bỏ một.
Rốt ráo là buông bỏ hết,
không giữ lại món gì, đó là tiệm giáo, lèo lái chánh giữa dòng,
không qua trái, không qua phải, món gì không hết tức là rẻ sang bên lề. Xem
trong sáu Ba La Mật mà so lường để nhận ra, rất là quan trọng.
֍֍֍
TU ĐẠO CỦA PHẬT
Lấy bốn quả, diệt bốn đế,
Thâu bốn đại,
Vào vô sanh đạo, A La
Hán
Tu sang năm đại là thêm
quả thứ Không Tánh, ta phải thâu ánh sáng, tức là ngồi yên chỗ, chú vào
ánh sáng, gọi là ĐẠI MINH CHÚ, chăm chú nhìn vào chỗ ĐẠI MINH,
có nghĩa là mặt nhựt (mặt trời) để thâu đó chứ không chi khác. Nên ta đã làm mới
đặng tướng hưu, mới qua 12 cửa Pháp.
Đạo này khó tu lắm
nghe, không biết nhiều thì tu nhiều a tăng cũng không thắng. Quả này gọi là
Không Tánh, là quả ánh sáng để soi nước trời, thuộc Bích Chi Phật, thường làm
vua trên trời, gọi là Thiên Vương. Phật ngũ thông, có năm thần thông, kế sang mới
tu vào đại thứ sáu là Đại KIẾN THỨC của Bồ Tát, tu sáu Ba La Mật, Đại Hỷ Xã Ba
La Mật, Đại Từ Bi, nhứt thiết đều vô ngại Ba La Mật, Phật lấy đức này mà tế độ.
֍֍֍
CHƠN TU PHẬT
Chơn tu Phật xét xem,
Phật mở hội trên Thiên. Giảng pháp diệt vô minh, chúng sanh nghe biết đủ. Chúng
hội vô lượng chúng.
Phật nói Pháp niết bàn
chỉ dạy theo lối tắt, tin theo rồi – nhập định.
Hào quang Phật bay ra,
băng qua muôn tám ngàn, Pháp thanh tịnh diệt tối cho vô lượng chúng sanh.
Lông trắng giữa chặn
mày phóng theo về hướng đông. Hào quang sáng bay ra, thấy các cõi kia gần,
thông bạch hầu như một. Nơi đây thấy được kia.
(Phẩm Tín Giải)
Phật nói và chuyển Pháp
xong, kế đến Phật thọ ký cho các người cầu đạo, chỉ giải cho phương tiện ý thú
của các Pháp, trong kinh phẩm của Phật, trong đó có Pháp Hoa là cao siêu bật nhứt,
không còn kinh nào trên, các nghĩa mầu thâm diệu diệt khổ cho tất cả muôn loài
chúng sanh, nghiệp tội các mầm khổ nghe kinh đều giải thoát mà không hề khổ
ách, lìa tất cả sống chết trụ về Niết bàn.
(Phẩm Phương Tiện)
Như Lai nói Pháp ra các
hạng người chứa tội kinh sợ mà bỏ trốn. Ngài thấy biết các căn, lợi căn hay độn
căn, mạng thanh hay mạng trược, tâm tịnh hay tâm lậu, nghiệp lành hay nghiệp dữ
Như Lai đều thấy đủ. Kẻ trong sạch nghe được tâm thấm Pháp đầy mình, kẻ tâm lậu
sai khác liền sợ mà bỏ đi.
Như Lai nói các quả,
chúng sanh nghe lậu tận đặng rốt ráo thanh tịnh mà trụ vào Pháp tánh, hiện ra
các Pháp lành đều đặng được thọ ký. Tu muôn vạn ức kiếp chỉ một lần nghe Pháp
mà đặng quả báo lớn.
Người tu Phật biết lìa
các dơ xấu nơi căn và các nghiệp dữ nơi mạng thì tu hành chóng thành tựu, như đặng
vào biển nước tắm mát dứt các lậu.
Pháp Phật bủa chiếu khắp,
chúng sanh đều tin nhận. Phật nói Pháp, chỉ bày các Pháp tướng, giải lý mầu cao
thâm, chúng sanh nhận đủ đặng Phật thọ ký. Ai con Phật thì tin đây.
(Phẩm Dược Thảo Dụ)
Mỗi khi Như Lai ra đời
chỉ có một mục đích là đem Pháp ra bố thí cho chúng sanh, bố thí xong rồi về
cõi viên tịch.
Tất cả loài chúng sanh
đều như cây khô héo vì không Pháp bao thân. Phật đem Pháp ra rải cho chúng tươi
tốt lại. Ví như cõi đất khô đặng trận mưa thấm mát lá cành đều tươi tốt, theo mỗi
giống chủng tánh của nó lãnh nhận, thọ hưởng không đồng nhau.
Người thọ Pháp cũng vậy,
người tin nhận phước lớn thì nhận đủ giải thoát. Người kém phước nhận ít chỉ khỏi
khát, do bổn tánh có lậu thô.
Thấy đủ, biết đủ, tin đủ,
nhận đủ thì giải thoát đầy đủ. Ai không tin nhận thì mất tất cả giống Phật, chỉ
làm thú làm quỉ, hết đặng làm người. Phải sanh vào loài đi nằm như heo, gà,
chó, lừa, ngựa, rắn rết … chịu các khổ đời đời đặng có thân đi đứng là rất khó
vậy.
Tu vào ngũ thường lấy
quả nhơn thiên danh cho chư cô, vì hạng này khó tu Thiền vì có 5 lậu nặng nề
nên phải cầu kinh sám hối mới tiêu độc để đặng thọ kinh báo, chơn rồi mới đi
vào Thánh được.
Nam nữ tu không giống
nhau, việc này thầy Bồ Tát Nam Hải có dặn ta rồi.
Xưa ta trụ tại cõi trời
Đế Thích, ta giảng đạo tại đó, cũng nói Pháp này. Ở đây rút tỉa gọn, xem kỹ mà
hiểu đặng, đã hiểu rồi thì giác ngộ. Giai thì liễu, liễu thì chơn, chơn thì diệu,
diệu thì tịnh, tịnh thì trụ viên mãn.
Pháp này trụ Niết Bàn,
đại Niết Bàn, vô dư Niết Bàn. Còn số, hết cai, liễu, hết ngộ, hết giác,hết
chơn, hết diệu, hết tịnh, gọi là không tịnh, không chơn không diệu ngoài sự đắc,
đây gọi là chơn diệt, chơn thiệt diệt thì trụ Tâm Cơ mới gọi là tâm Phật.
Niết Bàn là chỗ về bật nhứt,
và đại Niết Bàn, vô dư Niết Bàn, nhập Chơn Tâm gọi là viên tịch – gọi đó là
Hoàn Nhứt Thiết Trí, Nhứt Thiết Kiến. Nơi đây không còn dùng thân tướng, không
dùng căn cơ.
Như Lai ngài nói câu Vô
Sở Đắc Cố, nếu ai đã nhập chân tâm thử một lần mới nhận ra câu Pháp ấy, chưa nhập
được thì hồ đồ không hiểu tại sao. Tu lên bật cao Như Lai cho nhập thử rồi, nói
ra Pháp đó thì sở ứng ai cầu nhận đủ vậy.
Dụng Pháp đến đó không
còn dụng Pháp, mới nói là Phi Pháp. Quả Giác Chơn Trí Tánh đặng khai thì đó là
Chánh Đẳng Chánh Giác, mới nói là Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, đem
Pháp này ra giải độc cho thế gian vậy.
Pháp khí Phật ban chẳng
thể bàn,
Cơm gạo uống ăn trãi
qua lâu.
Lửa ấm chúng thâu chẳng
phải cầu
Bốn Đại ban ra độ dài
lâu.
Trần gian thọ dụng chẳng
gìn châu
Hủy diệt phước tiêu chịu
đói nghèo.
Phật ra đời tháng tư là
đem bốn đại ra thí cho chúng, độ chúng.
Mùng tám là tám đạo giải
để thọ quả Phật, chúng bỏ ngày tám đạo giải thoát, nên không
ai tu đắc ở đời này, về chúng sanh hết nói tám đạo giải thoát.
Như lai ra đời đúng
Pháp không sai một tí.
Ngày Phật đãn chúng đã
bỏ ngày 8 là đạo, chúng chỉ tu cho ma quỉ hết, hết về đặng đạo.
Ta dặn đạo Nam Thiên phải
đãnh lễ tin nhận ngày 08/04 của Phật. Chúng sanh không nhận, Như Lai ngài nói tội
chúng sanh quá cao, nên chúng nhận ma làm thầy, chúng biện luận ngày 8 là ngày
âm độ, còn đây là ngày 15 âm độ với đây, cách có vài giờ - sáng và trưa, dù lẻ
24 giờ cũng là một Pháp.
Quỉ ma đến phá Đạo ghê
gớm.
Con cháu Phật nhận ra…
Đời Pháp tàn khối trược làm chủ, qua đây đời pháp tăng
khối thanh trở lại, đã đến đây, Thất Bữu Sơn chuyển Pháp.
Phật có 7 núi Thánh sẽ thị ứng ngày sắp tới - Ất Hợi kỳ
chót của Long Hoa chúng sanh tăng tuổi thọ Pháp Di Đà tiếp dẫn, cháu con sẽ hết
lo…
֍֍֍
ĐẠO THÔNG
Tu sao mới đặng lục thần
thông
Phải dọn đế, chuyển đế
về hư không nên gọi là đấng Đại Đế.
Đế về Thiên thì gọi là
Thiên Đế
Đế về đất thánh thì gọi
là Thánh Đế.
Đạt Lục Thông
Nhãn Nhĩ Thông
Tỹ Thiệt Thông
Thần Túc Thông
Túc Mạng Thông
Tha Tâm Thông
Lậu Tận Thông
Tám đạo giải thoát thì
thọ nơi mạng nơi căn.
Chánh ngữ - Lời nói hiền
đức không có nét xấu
Chánh mạng – Thân không
hề làm việc ác
Chánh nghiệp – Nghề
nghiệp nuôi sống đều không có sự va chạm
Chánh tinh tấn – Siêng
năng lo gìn giữ
Chánh tư duy – Suy nghĩ
việc tốt, không có các dơ xấu
Chánh niệm – Niệm cho
ra câu niệm
Chánh định – Định xem
việc làm đúng hay sai
Chánh đạo – Mọi việc in
đúc, in khuôn, không ngoài, không trong.
Đạt quả này có đặng 3
món minh – là 3 Pháp thêm sáng.
Chánh trí – thân
Chánh pháp – thân
Chánh tăng – thân
Kế đến có Long Thần Hộ
Pháp
Có Thánh Thai
Có Pháp Tử, mới có 32
tướng tốt, 80 vẻ đẹp.
Có Tam Muội và Đà La
Ni, Triền Đà La Ni.
Pháp thân thành Kim
Cang Tam Muội Bồ Đề
Có 3 loại phép tướng
1 tướng dê
2 tướng hươu
3 tướng bò vàng, trâu
xanh.
Đây là tướng Bồ Tát Ma
Ha Tát, Như Lai thì trâu trắng.
Các Pháp tướng này đời
ta hiện tại mới đem ra dùng, từ xưa lại chưa có ai làm. Thánh ngưu đi vào âm địa
diệt tối tăm, 10 lần hành đạo thì đặng bóc da lấy thân Thánh về Tây phương ướp
sen ở thành Bồ Tát chơn thân.
Đây đạo ta làm như vậy,
các đạo khác ta chẳng hề biết họ làm gì. Trước còn bà Tín, bá mẫu của các em
thường đi mổ với ta lấy Thánh thai, việc này trong đời không ai biết làm, chư
Tiên gia dù đến Bồ Tát tiên mới có 1 Thánh ngưu, còn số này ta có cả trăm triệu
pháp tướng như thế. Nên biết Bồ Tát Phật thừa chơn chánh không ai vược qua được.
Pháp ta rải cả 10 phương, ai nào biết ta ở đâu.
Ta chứng để chuyển pháp
hào quang đi độ
vế hào quang này ở phía phải phóng ra bay về trụ giữa hư không.
Buổi 20/08/1984 năm
giáp Tý.
Thường bay ra trong mỗi
tuần 1-2 lần 3-4 lần cũng có.
Nếu định cánh quay có
khi quay tròn ở hư không mà phóng ra các tia pháp vuông dài.
Chuyển Pháp này vào địa
ngục nhả hào quang sáng rất đẹp.
Tu hành đắc lọai này
chơi cũng vui, không buồn nản.
Nhứt thiết pháp mầu thọ
lượng.
Ba ngôi Thánh đạo giải
thoát trụ - Phật – Pháp – Tăng
Chuyển pháp đúng giờ,
niệm đúng mỗi huyệt
Tướng trần chứa có 5 lớp
ấm thọ địa ngục nên vì phải băng qua.
Hít hơi thở từ dưới đưa
lên theo xương sống, đẩy ra qua đãnh đầu duyên về điễn trụ trước mục tiền.
1 huyệt đãnh (trên đỉnh
đầu)
2 huyệt gió (huyệt ở giửa
lòng đầu)
3 huyệt lửa (ngay yết hầu)
4 huyệt nước (dưới ngực,
ngay giữa)
5 huyệt đất (dưới rốn)
Có 4 đế thần
Tu có đặng thần đế ngồi
đạo chơi cũng khoái lạc, khi đạo chứng đắc, thân tâm thấy rỗng lặng, rất mực
bình đẳng, thương tưởng với tất cả, kẻ tội, người không tội cũng thương mến đồng
nhau, không một tí sai trái. Tâm ta bủa đức thương nhứt là người đa nghiệp lại
thương xót hơn. Vì việc làm ăn sanh sống ở đời có ai nào người được các việc
làm, nên do đó mà anh chị em đều mắc phải lưới tham lam, si mạn …
Chơn là được phước vược
qua rồi, ta nên hết lòng vì chúng mà cứu chữa… chẳng nên hẹp lượng mà phải rộng
nới thêm làm cho chúng dứt oan trái, dứt hết vòng sanh tử, dứt nghiệp luân hồi,
mà lòng ta không hề mong cầu ân nghĩa đền đáp hay việc gì khác.
Theo hạnh Phật mình
làm, có thí đặng thân vàng ta cũng không nghĩ đến. Bồ Tát tại thế gian nên làm
rất kín đáo, thầm lặng mà hóa độ, ta chẳng hề khoe khoang như Ziêsu Crist,
chúng thấy được phép lạ kéo nhau theo mà nay thâu dỡ, bỏ dỡ chẳng đem lên được
đất Đại Phạm Thiên.
Mỗi khi ta đi hành đạo
ta hắt pháp đăng đầy cõi hư không, đèn sáng soi cả trời đất, chư Thiên đem xe lớn
chở bánh đến cúng dường bày ra cả hai ba cây số rộng, Chư Thiên đem ly đến để
ta phát nước Pháp cho họ, số Chư Thiên nhiều mấy chục ngàn, cả trăm ngàn có dư.
Trần gian làm sao biết
ta làm việc với linh hồn, không làm với người đời, mà chẳng hề quen biết ai, việc
mình tự mình lo, ai sao cũng mặc lòng. Suy nghĩ thế đó mà kín đáo không ai hay
biết phước đức tu hành, thành đạo độ chúng sanh đó là quí báu rồi.
Cám ơn lại trời đất và
đấng Phật thế tôn, đã vui vì cả chúng cho trọn đạo. Ai người ở thế gian chẳng
ai nào biết đạo, họ đi ngoài vỏ, danh sắc, tiền của vật. Buông bỏ nơi linh hồn,
khi chết rất đau, phải thọ vào ngục tối mà chịu quả báo khổ cho đến khi rả rời,
thể hồn da bọc xương coi rất là thảm thương, đi đứng không vững đói lạnh ở
trong ngục chẳng được ra đi lại, ngồi yên để thọ tội đến cả muôn ngàn năm, rời
rả cả tay chân, mặt mày đều móp méo. Có ai vô ngục sẽ thấy số nhiều không tính
kể, nước biển còn kém xa, ta chỉ nói sơ qua.
Có ai xem đặng biết đạo
Phật của Nam Thiên là đạo của của Bồ Tát hoá độ các chư linh, ta là người hoá độ
các chư linh, chư linh là em ta, ta chẳng hề bỏ một ai. Ai chết ta thấy được,
đưa tay nâng họ lên, rất là mát, tự nhiên, không hề có sợ sệt, bình tĩnh. Kẻ mới
chết còn mê, ba ngày mới tỉnh ngộ tự hỏi “sao tôi được ở đây” ! Chư linh khách
chỉ tay “Thầy đưa ông chớ ai”.
Mỗi khi về cõi nhà, chư
linh thường khóc và kêu gọi “Thầy ơi, nhớ Thầy trông ngóng mãi, xin thầy mau về
lại”.
Ta có vô số quyến thuộc,
thân ta bay về các linh trông thấy reo hò ầm tiếng vang “Thầy về anh em ơi”, đó
là rất an vui.
Nay ở đạo Ziêsu Crist đang khẩn cầu Bồ Tát tham gia để
độ các con chiên của họ. Đã hai năm qua, các cha bên âm đều đến xin ta đi độ
dùm.
Nhớ năm 1978 Canh Ngọ
ta đưa tháp bay lên chỗ đất bà Cữu Thiên chuyển pháp độ cho cõi bà lúc 8 giờ buổi
sáng, trên đất bà nghèo lắm, chư thiên chẳng đủ no, đất thiên đầy cỏ mọc rậm rạp,
nhà ở lưa thưa, chẳng mấy an vui.
Các nước thiên ta qua chẳng
có món nào tốt mà đặng để ý. Các thiên cũng đói nghèo, thay vì đặng chỗ sáng và
đặng phước tự do no đủ hơn ở cõi trần khổ, việc làm mồ hôi đổ, thân gầy ốm, sống
chẳng lâu.
Thời Pháp chư Phật rút
về các nước thiên cũng đói huống gì là nhơn gian mà không đói sao được.
Nay trở đi Đức Phật để
Phật có hạn lượng định kỳ, chớ không thể để dài lâu.
Sau đây thất Bữu Sơn Phật
chuyển Pháp tế độ chúng sanh sống thêm tuổi, cơm gạo vô số, của ăn vật mặc đều
không thiếu.
Nay Pháp tàn đã lâu xa
lắm.
2034 năm không Pháp rồi.
Pháp Bồ Tát độ thì sống
tạm 2 ngàn đến 4 ngàn năm.
Pháp Như Lai độ 12 tiểu
kiếp = 500.000.000 năm.
Bồ Tát Ma Ha Tát độ 8
tiểu kiếp lâu.
Nay Đức Như Lai không
phải ngài chủ ý độ, mà ngài thâu quyến thuộc, chớ 2.500 năm như gió thoảng qua
thôi.
Ta vẽ lúc đêm sơ lược
cho nhớ để biết chỗ tìm, ta viết ra không một ly nào sai.
Xem đây biết đạo
Hai vế Pháp này hiện ra
rất là nhiều đều cũng in một thể.
Vẻ đây để các em biết đạo
khi tu chứng có lắm đế - 4 ông, 5-6-7-8 ông mỗi trụ Pháp bảo.
Pháp chơn hiện nhiều
thân, không chơn hiện ít.
Như Bồ Tát thập trụ thì
có 10 ông, cữu trụ thì có 9…
Tu đạo đừng dùng danh sắc
Đừng làm trò khoe
khoang
Cứ tự do làm, có rồi tự
vui.
CUỐN CẨM NANG THIÊN CƠ
Chỉ lật 1 tờ có vô số
món hiện ra
Chư Phật nào cũng lập
quốc độ nầy cho quyến thuộc về trụ (ảnh)
Chúng sanh trụ trong quả
này, không phải bên ngoài như ta tưởng đâu, đó gọi là nhập Niết Bàn.
Trong quả này cũng có 3
lớp Pháp
Phật trụ
Bồ Tát trụ
Tăng trụ
Phật lập cõi đất lưu ly
8 đường giao thông.
Đây là Đại Niết Bàn, vô
dư Niết Bàn lại khác hơn.
Cõi đại tâm cơ (xem ảnh
hình tròn)
(xem ảnh hình cánh quạt)
Tam giới Thiên
Chư Phật lìa nơi 3 cõi
Thiên quốc, độ Thiên của Bồ Tát, lập Bồ Tát thành Như Lai, lại bỏ Thiên quốc mà
lập Phật quốc.
Xem đây mới hiểu được
mình tu làm gì sau đây.
3- Cõi Bồ Tát trụ
2- Sắc Cứu Cánh (thanh
văn duyên giác)
Thiên Sắc
Thiên dục
Nhơn gian
Địa ngục.
Nước Thiên chỉ bằng 1 tỉnh
nhỏ của nước Phật.
֍֍֍
NGƯỜI TRONG PHẬT
Người trong Phật thường
bình đẳng, không tham đắm, mùi phàm đều không có, lòng chơn thật, không có tưởng
vọng cầu. Sống thanh bần, danh sắc đã tiêu mau. Có 6 căn lành, thấy có cũng như
không, các tham thủ tiêu tắt tự ban đầu. chẳng hề giữ cái của mình còn mất, thoảng
như không, coi nhẹ như cánh lông, có – không cũng như không có vậy.
người trong Phật chẳng
hề làm cái quấy, tánh tự nhiên, nhìn ngó ai cũng vậy, tướng phàm phu mà đạo cả
vươn cao, hoà đồng tánh, bất cứ ở loại nào, thường hạ liệt đối với người cao tuổi,
nhẫn nhẫn hoà, lấy đức để độ tha. Đừng vin vào như đạo quả ta có, dứt tánh cao,
đừng cậy mình hơn đó, bỏ khoe khoang là Phật tánh mới cao, không ỷ thế thì các
tệ mới rớt rơi.
Đem đức tánh để dẫn đường
chỉ lối, mở đầu đề, nhằm chỉ ngỏ qua sông, thọ tứ chúng đặng mở lòng đi tới. Đặng
một hai cũng đều là có lợi, lòng nhẫn hoà do đây mà hồ hởi.
Người trong Phật không
món gì cất giữ, rốt ráo cho, từ quá khứ vị lai, lòng hoà dịu đến lúc hiện tại,
đặng bảo châu cũng dâng cả cho kia. Trong trắng ấy mới là người trong Phật.
16/02
ĐẤT CỦA PHẬT
Trong cõi đất lưu ly
cũng đều trang nghiêm sáng đẹp, mặt đất trong bóng như ta đi trên mặt gương
trong, không có bụi rác, tất cả đều in một khuôn thanh tịnh, có Pháp bao quanh
cõi nước như thành cao ngút kết lại thành một quả tất cả đều trụ trong đó.
Như Lai Phật ngự trên
cao, ngoài vòng đó là Bồ Tát, vòng thứ 3 là tăng thánh trụ, mỗi mỗi đều có cây
song thọ gọi là cây Phật (Bồ Đề).
Có 8 cửa để vào, bên đường
hoa Pháp ta trông như hoa đá đủ mầu sắc thơm, ở cõi trần không có mùi hương đó,
nếu tỷ căn thanh tịnh thì dù mùi hương xa gần cũng biết ngửi được.
Nói về các chơn tu đắc
Pháp phải là hàng đầu, đắc Pháp tuỳ theo mỗi hạnh tu của mỗi người, không có đồng
nhau.
Có người dùng mắt làm
chuẩn
Có người dùng tai làm
chuẩn
Có người dùng mũi làm
chuẩn
Có người dùng ý làm chuẩn
Có người dùng lưỡi làm
chuẩn
Nếu trong 6 căn Pháp,
loại căn nào ra đầu thì căn đó làm chuẩn.
Trong đó đều có 4 đại,
mỗi đại đều có đủ cả 4 theo hướng Pháp.
Đất làm chuẩn dẫn đầu,
thì đất làm chuẩn, phần nào thì phần ấy làm chuẩn, mà mỗi một làm chuẩn cũng phải
có đủ 4 đại chớ không có riêng rẻ.
Đất cũng có nước lửa và
gió, mà nước cũng phải có đất lửa gió nhập vô đủ. Lửa cũng có đất nước và gió.
Gió cũng phải có đất nước lửa gom vào.
Mỗi mỗi pháp thân cũng
đều có Pháp tứ đại cả và 6 căn cơ, thay vì các Pháp loại sạch trong suốt như
gương trong đó cũng có 4 đại 6 căn thân cả.
Chơn tu đắc nếu có đức lớn mở được huyệt đãnh thì Pháp
lớn.
Đức nhỏ thì không mở được chơn đế ở trên mi, chặn mày,
không khoét được cái đế đại đạo, thì phải ra ở cữu khiếu (mũi) Pháp ít nhỏ. Cửa
này tu lâu lắm mới đặng quả thanh văn mà sang đặng 12 nhơn duyên thì phải qua
lâu đời lắm mới sang đặng quả đó, vì phải trang trí cho đủ 500 pháp thân mỗi
ngày, ở đó bằng năm ở trần, tu 1.000 năm không bằng ở đây tu thiền 100 ngày, mỗi
ngày 12 giờ tu thôi. Trên đó không theo kịp.
Thay vì ở cõi trần hay bị nhiễm độc:
là vợ con
là xã hội
là tần tảo của ăn vật mặc
là sợ đói rét, nghèo nàn
là sợ bịnh não…
Nên tu đắc Pháp có chánh báo thân xuất ra, lần đầu còn
nhỏ, dần dần hưởng Pháp mới lớn, trãi qua đó là 8 năm mới bằng pháp thân Thanh
văn mà ta có, mà ta có tam hồn, phải ra làm 3 đợt, mỗi đợt là : 8x3=24 năm thì
3 pháp thân mới bằng nhau, số đây sẽ đứng hàng đầu của 500 pháp thân kia tu, nội
lấy quả vô sanh cũng đủ mở được huyệt trên.
Ta tạo mỗi pháp thân có 6 năm : 3x6=18 năm của Pháp lớn,
pháp thân chóng mập, số đây có:
1 lớp long thần hộ pháp,
1 lớp chơn tinh,
1 lớp vô uý Pháp
1 lớp nhiếp Pháp
1 lớp điền pháp tử
Còn vô sanh món phải tạo mà chúng sanh chẳng hề muốn
biết, cứ ở cõi trần theo vợ con tưởng là no đủ rồi.
Với người nam 3 kiếp
không tu, tự mất phước nam – làm thân nữ, nghĩa là mất phần dương, còn lại phần
âm.
Nữ 3 kiếp không tu thì
bị làm thú cầm, rồi ra cây cỏ, biết ra đất đá là tiêu hết.
Căn mạn người biết tu
dù là ăn mặn, biết chuyển Pháp vẫn tu được, nếu Pháp chuyển về chánh đạo, ra hư
không tự nó sạch mà kết tướng tinh, có hơi nặng đôi chút mà vẫn có đủ thần lực
duyên Pháp đi thủ thắng đạo.
Người ăn chay là tập
làm công đức, làm hiền tu phước để nhập thiên đó thôi.
Phật Pháp không có vấn
đề ăn hay mặc, mà vì các Pháp tu chứng mà thôi.
Người tu đắc Pháp, lớn
Pháp san ra vế tâm cảnh thành ruộng, gọi là ruộng phước, đợi có lúa mọc ở ruộng
chín vàng, gọi là đắc quả vật chất, lấy gạo đó nuôi tăng hoá Pháp thân, đắc quả
lấy gạo đó làm đường trộn nước…
Trên đất Thiên gọi là đắc
đạo, thành Bồ Tát mới có Pháp viên, mà hiện Thánh Thai Pháp tử…
Đây gọi là quả tinh
thân, đạo Bồ Tát mới có loại này, còn Thánh chỉ có 1 ông tăng là cao.
Tu Phật phải nhẫn do
cái mình lìa được mới nhẫn.
Thí dụ ăn thịt chúng
sanh tạo thêm vô minh, thì không nhẫn được mà còn hay sân giận chất cao, oán
ghét càng nhiều. Cái chê chấp ẩn nấp nơi tâm do đó mà khó tu, muốn tu thì tự khảo
cho đến chết không tha. Nếu người ăn ở nói làm không biết gì cho đời sau, thì
qua đời sau tự khảo cho khổ không tính hết được.
Nói ra cái gì ta thấy
thì nói, ai xem nên suy xét cho kỷ xem có phạm vào nghiệp dữ không.
Muốn đặng an vui thì phải
tu, không tu thì thọ địa ngục chớ không chạy đâu mà thoát được các khổ đã vay tạo.
Người kém đức hay tự
cao, khinh mạn, chê bai, vọng chấp, hay tự ái, che dấu các xấu của mình, hay
khoe khoang, ai nói đến là thù oán… hẹp lượng và tham sân nhiều…
việc này khó mài dũa lắm,
vô minh này cao, quả này khổ đủ mọi mặt.
Ở đây theo cái gì ta đã
có ta mới nói.
Chủ mục học đây:
Đắc đạo hay không
Đạo đắc chỉ một sát na
cuốn này viết tắt, chớ
viết vào các khổ là dài còn rất nhiều.
viết cho đạo xem học,
sau không học thì đốt đi dùm thầy.
Dặn các em trước nhớ đừng
xé bỏ thì phạm tội rất nặng vì Pháp nằm cả trong đây.
02.12 Kỷ Tỵ
֍֍֍
XEM
Nhẫn nhẫn tin về Phật
Pháp Tăng
Dứt lìa tham dục hết
nói năng
Vọng tưởng cầu danh phải
lìa mau
Muốn lấy thật vàng phải
bỏ thau.
Các hoặc ta kiến tham
si ái
Quăng bỏ đi rồi mới đặng
đi.
Đã vào chơn đạo, bố thí
không cầu phước đức, quên hết đó mới là phước đức.
Cái không cho mà đem
cho mới thiệt là cho.
Không cất giữ vật gì mới
tự do.
Làm được vậy đạo quả rất
là mau, ví như sông lớn chứa nước, xong duyên về biển cả thì thành Như Lai Phật.
Dặn kỹ:
Phạm luật gì cũng còn
tháo gỡ được, mà phạm Pháp là hết tất cả, vì Pháp la nhứt, không Pháp thì chìm
đoạ, lấy Pháp để nâng hồn vậy.
Nam Thiên Bồ Tát căn dặn
cặn kẽ để mọi giới lo tu về Phật.
Cuốn Pháp A Di Đà này,
các em thuộc giống Phật đây phải nên giữ kín.
Đời này chỉ tu hành
kiên cố.
Không dùng chùa, không
tượng cốt, cũng không dùng kinh, hay chấp kinh cũng khó tu, ta trì một thời
gian đủ số rồi mặt khác lo tu huệ.
֍֍֍
Hồi hướng cả thảy về Phật
đạo
Cầu xin cho Pháp giới đều
thanh tịnh
Cả thảy chúng sanh đều
thành chủng trí.
Nguyện các tín thí ruộng
phước thêm gieo.
Có tình, không tình đều
thành chánh giác.
Nam mô A Di Đà Như Lai
(3 lần)
Cẩm nang Phật lật một tờ
thấy ai tu ai đắc, ai không ai thành đạo, ai thành Phật, bao giờ thành …
Ai cũng có cẩm nang
chân tâm cả, ngày giờ tu, ngày giờ không tu.
Ngày giờ lập nghiệp,
ngày giờ đi đâu, ở đâu với ai… chỉ rất rỏ ràng.
Khổ chỉ, vui chỉ, nghèo
chỉ, giàu chỉ…
Tâm sắc bén hơn máy điện
tử của trần, rất xa, không một mét nào sai.
Đừng nói khác, chỉ chỗ
cho họ đi bằng ý niệm, tha thiết cầu xin cho tất cả.
Đừng ngại khó, phải vì
chúng mới vui.
Tự quy y Phật
Đương nguyện chúng sanh
Qui về đạo chánh
Nhứt thiết vô ngại
Qui y Pháp
Đương nguyện chúng sanh
thấu rỏ kinh tạng
trí huệ như hải.
Qui y tăng
Đương nguyện chúng sanh
thống lý đại chúng
hết thảy vô ngại.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Nguyện tôn nghiêm qui mạng
và đãnh lễ,
Ứng cúng thể lòng
thương các con.
Xin đức từ bi tế độ và
tiếp độ.
Đấng Như Lai cứu vớt cho
muôn loài.
Con cháu đều hướng về
xin phát lòng sám hối,
Con cháu lắm lỗi lầm.
Xin đấng trên thương
xót xá tội.
Nam mô A Di Đà Như Lai
(3 Lần)
֍֍֍
Tu không biết có tu,
Đó mới là thiệt tu.
Lấy đức lớn mà báo lại
anh chị các em,
Đó mới là Bồ Tát độ.
֍֍֍
TÂM CẢNH
Như Lai nói Pháp chỉ
tâm cảnh sanh vật.
Tâm thiên vương như la
hán và Bích Chi Phật.
Tâm cảnh mọc cỏ.
Phần thân cỏ loại nhỏ
thấp.
Thánh cỏ mọc cao.
Bồ Tát mới phát tâm cỏ
cở cây lau.
Bồ Tát sơ địa lên đến
thập địa, mọc cây loại nhỏ.
Bồ Tát Ma Ha Tát mọc
cây loại lớn như cây vú sữa, mít…
Ta thấy trong cảnh cũng
vậy, bầy thánh Ngưu đi dạo trong rừng có đủ thứ lớp, loại thấp 1 thước, loại 2-3
thước, loại lớn 4-5 thước.
Tu hành phải quán thấy
rỏ tâm cảnh của mình.
Đó là chỗ về của mình vậy,
chớ không phải ở đâu.
Tâm san đất, lập thiên,
khi tâm siêu rồi là như vậy.
RÚT GỌN THẬT KHÔNG DỐI
Chỉ đây là một, chưa tu
giỏi đạo chưa về. Tâm thọ địa ngục thì chìm mãi.
Ở đâu chết thì hồn cũng
vô ngục, tâm đâu hồn đó.
Như Lai nói tuỳ cơ
thôi.
Thọ tâm cảnh là vui mát
dịu.
Bồ Tát phải khéo lọc
Pháp, giờ Pháp vương trồng cây Pháp đã 4 năm rồi. Nay vẫn còn đang trồng.
Nói đạo Đại Thừa là nói
lên về Phật, tin theo mà định chắc, sẽ đặng về nương ở, không còn bị nghiệp dữ
hành hạ.
Ai ở đời trải qua nhiều
các khổ mà không có chỗ giữ thân, qui về nơi Phật sống nơi tịnh Pháp, không phải
lo sợ, không có bịnh não, cũng không chết. Không có sanh tử, ưu bi khổ não cũng
không có.
Không còn lo đói khát
nghèo nàn, không bị quả báo giận hờn oán than.
Phiền não đều tiêu tan,
không có ai nào phá quấy.
Sống rất tự do an ổn bậc
nhứt, sống sướng hơn ở cõi của các thánh.
Sống trẻ mãi không già,
thân tốt mập ít ăn mà không hề thấy đói…
Y - áo tươi tốt đẹp mới.
Chẳng phải làm lụng
Nơi đây ở không có chán
ngấy như ở các cõi kia.
CÂY NGƯỜI
Cây người mọc ở đâu?
Chúng sanh không hề thấy
cũng không biết, đây ta nói cái có thật:
Mọc theo xương sống về
trước, mọc thẳng lên qua đãnh.
Theo cây loại nào khi
tu, cây nầy có quả, gọi là đắc quả nhân, quả trái đều rất đẹp lạ, tu đắc lớn
thì cây lớn, đắc nhỏ thì cây nhỏ, khi qua đời cây mới nhổ cả rể lên thì hết hơi
thở.
Gọi là cây đạo thọ, cây
còn mọc thì còn, nhổ rể ta chết.
Tu hành tuỳ theo Pháp
mình mà trụ, đừng nên hồ đồ vấp té ngã đau. Phải thận trọng siêng cạo rửa, làm
cho tâm nhẹ bớt mà trút lên.
Tại gia là đạo đại đồng,
bình đẳng với tất cả.
Đạo về chùa là nhiệm vụ
của chư tăng.
Chúng sanh câu chấp nên
bị ma phá, khổ mà bị tê liệt.
Đạo Đại Nam Thiên Phật
Pháp A Di Đà phải siêng lau lọc, đừng để lọt sàn mà khổ thân.
Đã sang cảnh tâm trụ của
con đạo (NT), nhà hầm sâu xuống đất 150, mái nhà trên mặt đất có 1 thước.
Ta đã lực hết tranh đưa
thân chư đạo lên 30/02 và 01/02, trong tuần này đã báo lại công đức của con đạo,
nay không còn ai thọ ngục, đặng tự do.
Đức ông đã chứng minh
cho ta làm giúp các em ta.
Đây là việc cứu độ quan
trọng, về đạo là hơn cả.
Dù vào lửa, anh cũng
vào mà đưa ra …
TRỤ
Xin chỉ rỏ cho đạo biết:
Các Pháp khi tu chứng đắc
rồi, các Pháp đều kết vào thành vế, không có hạt tẻ, rơi rả, đều có tơ, duyên
theo làm một vế.
Trong đó có nhiều thứ lớp,
mỗi lớp mỗi loại tướng pháp.
Tùy theo mỗi loại mình
tu lọc.
Chơn nhiều ít do ta
siêng gội rửa.
CUỐN NÀY CÓ NGHĨA CỦA
KINH PHÁP HOA CỦA NHƯ LAI
Ghi các hồng danh của
các chư Phật, hóa độ trong cõi Ta Bà cho đến nay 91 kiếp, trót thời kỳ tăng độ
của đức Thích Ca Như Lai, mới có một nửa vòng, còn một nửa vòng là 89 kiếp =
180 kiếp của đức A Di Đà hóa độ.
Sau đây còn 3 đời chư
Phật của Pháp A Di Đà.
Sau đây đến đức Di Lặc
hóa độ cho tiên đạo.
CON ĐẠO NAM THIÊN PHẢI
NHỚ
Xem các trụ của thánh Bồ
Tát, chỗ ta vẽ các em sẽ cũng đặng như vậy.
Các mục trương chỉ tiêu
rõ thấu nghĩa của các Pháp tu theo đây đi vào Đại Thừa Pháp của chư Phật.
Chúng ta là con cháu của
chư Phật nên phải một lòng ghi nhớ đạo của đấng tổ thầy, để về nơi đó.
Ta vẽ sơ xem cho rõ,
khi các đạo đắc, đạo mới rõ việc hành các Pháp, nói chưa chắc đã hiểu rỏ.
Lòng thanh tịnh nghe rỏ
hiểu thấu, đặng các Pháp vào vô lậu Pháp tánh. Có trí đạo duyên xa đi biết rỏ
căn mạng của chúng sanh.
Có đặng Pháp thân vô lậu,
xuất nhập bằng vô định, đó mới tạm đủ vào Bồ Tát đạo.
Tu đạo ta phải phá hết
các ràng rịt, là từ 6 lớp chúng sanh, mỗi lớp có 10 phẩm, cộng có 60 thì trụ về
phàm thánh.
Ta phá 2 lớp 2x10=20 cộng
vô 60 bằng 80 để về hàng vô sanh đạo A La Hán.
Nếu sang Đại Thừa phải
phá thêm 8 phẩm cộng vào thành 88 mới hết cắc hoặc, nghĩa là các trược, lậu đều
dứt, vô minh hoặc, kiến sở hoặc, tham trược hoặc, để vào Pháp Đại Kiến Thức, đủ
đạo Bồ Tát đến quả Bồ Tát Ma Ha Tát, đi cùng tột vế này rồi tu vào đạo Như Lai
để lấy Đại Thức Giác, lấy Pháp tổng trí huệ, gọi nôm là Pháp trí kiến, ta sẽ
vào tận cùng nơi chơn tâm mà không còn dùng đến pháp tướng.
Thấy biết từ đầu chí cuối,
không sai chạy, bất luận là loại nào cũng không che dấu được.
Đến đây ta đi bằng ánh
sáng, gọi là Như Lai. Như là tự nhiên lại đến, đấng Như Lai gọi là đấng tự
nhiên đến, mà không phải định gì cả.
Đại Bồ Tát khi giải
thoát Tam Muội rồi sẽ cũng đi như vậy, cứ tu được rồi thì việc gì cũng đều được.
Khi tu đắc đại Pháp rồi
thì một sát na cũng là cái bất ư lay động, nên nói là được mà không được, đã được
rồi còn gì nữa mà không được, đi hết đường còn đường nữa đâu mà đi, nói hết rồi
còn đâu nữa mà nói, nên nói mà chẳng nói, làm mà không làm, được mà không được,
đến mà không đến, đi mà không đi.
Cứ tu chứng rồi mới thấy
lời nói đây là thiệt không sai.
Nên có ai hỏi về Pháp,
ta làm thinh bất ư lay động, đó là ta biết Pháp, vì Pháp không có chỗ nói.
Không lớn, không nhỏ, không sạch, không dơ, không cao, không thấp, không rộng,
không hẹp, không dày không mỏng, không có mầu mè, không đó không đây, làm sao vịn
vào chỗ nào để nói. Nên không lay động, không 2 cũng không một, đó là chơn.
Vì muốn cho mọi người về
Phật cho nên vì nói, mới đặt ra kinh để chỉ bày đường về vậy.
֍֍֍
PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT,
NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG.
Là nguồn công đức rất
cao.
Đừng ai cho là thường
Hãy thọ đi thì biết
Ai không thọ một Pháp
nào, mà chỉ sáng tối niệm Phật, cũng đặng quả tốt mà không hay.
Theo Pháp này được chư
Phật chú ý hộ niệm cho mà được quả tốt.
Ất Mão 1960 trì đạo.
01/01/1960 – 04/04/1966 đến Bính Ngọ đến 1990 Canh Ngọ - 30 năm.
04/04 Bính Ngọ
M. Thân T.K – AL . H
C. Tuất TK. 12 – ND
Q. Sữu TK. 8 – BT
G. Tý TK. Maha
Phật đạo gồm:
Độc giác Phật là A La
Hán cũng gọi là thanh văn
Đại giác Phật là Bích
Chi Phật gọi là duyên giác
Đẳng giác Phật là Bồ
Tát sơ đến Đẳng Giác là Bồ Tát Ma Ha Tát
Chánh giác Phật là Như
Lai Phật.
֍֍֍
NIỆM PHẬT:
Kính lạy Phật trí tôn,
trí thánh
Đặng hoàn toàn đạo
chánh xuất thông
Chỉ một mình tìm đạo hết
lòng
Đắc chơn lý, thầy không
chỉ dạy
Kính lạy Phật, ngài ngồi
nhập định
Trên bồ đoàn, dùng số tất
quan
Trừ quân ma binh tướng
tiêu tan
Nên ngài đặng hoàn toàn
chánh giác.
Kính lạy Phật tròn tâm
khẩu ý
Đức từ bi tam giới
không bì.
Kính lạy Phật Như Lai
quá khứ
Phật hiện tiền cùng Phật
vị lai.
Kính lạy Phật từ bi tự
tại
Bởi tội tình đều thảy dứt
xong
Các kiếp xưa tự tánh
viên thông
Thảy đều rỏ kiếp trong
bá tánh.
Kính lạy Phật hoàn toàn
đức hạnh
Chứng Niết Bàn đạo
thánh cao thăng
Có thần thông xét rỏ tội
căn
Chúng sanh tánh đạo hằng
sanh quả
Lẽ hư không đều thông
thấu cả
Có vật nào ngài chả tường
chi.
Biết chúng sanh ai có
duyên gì
Tìm đặng độ thoát ly khổ
hãi.
Kính lạy Phật ân ngài
quảng đại
Thấy trời người với loại
chúng sanh
Thấy tứ đế là đạo rộng
lành
Đem giáo hóa nhân sanh
rộng thấu.
Kính lạy Phật đạo mầu đắc
quả
Đặng siêu sanh khỏi cả
Tam Thiên
Khỏi luân hồi dứt mối
nhân duyên
Cùng diệt độ hưởng miền
khoái lạc.
Đệ tử nguyện một lòng
ghi tạc
Cầu qui y chánh giác
nào phai.
Xin ơn trên lượng cả
Như Lai
Tha tội lỗi từ nay hướng
thiện.
Cầu lượng cả ơn trên
xin miễn
Thứ lỗi lầm chí nguyện
ăn năn.
Mong cầu sự bình an hỷ
lạc
Nương Tam Bảo theo đường
chánh giác
Cầu ơn trên nước Pháp
rưới ban
Khiến đều cho tất cả thế
gian
Mọi người đặng theo đường
thiện nghiệp.
Nhờ lượng cả ơn trên độ
tiếp
Đệ tử nguyện trọn kiếp
qui y
Ngưỡng bề trên xuống đức
từ bi
Thương chứng chiếu lòng
thành đệ tử.
NIỆM PHÁP:
Kính lạy Pháp dạy đàng
bát chánh (Bát Chánh Đạo)
Do kính này chư thánh
viên minh.
Đắc Phật đà la hán nhờ
tin
Qui chơn lý nên mình khỏi
đọa.
Ai muốn được Niết Bàn
thì khá
Tu Pháp này dứt cả tham
sân
Cùng say mê rửa sạch bụi
trần,
Tiêu tam giới được phần
giải thoát.
Kính lạy Pháp tạng kinh
là trước
Phật tổ truyền hiệp các
lý chơn
Dạy chúng sanh rõ thấu
nguồn cơn
Tu theo đó chư nhơn sẽ
hiện
Chư thánh xưa cũng đều
y nguyện
Trì kinh này mới được
viên minh
Nào phải ai đem đến cho
mình
Hễ tự kiến tánh linh
thì đắc
Chư la hán phép này gồm
chặt
Người chơn tu phải chắc
nhớ ghi.
Thật Phật nầy quí báu
không bì.
Đệ tử nguyện qui y hướng
thiện
Cầu lượng pháp ơn trên
xin miễn
Thứ lỗi lầm chí nguyện
ăn năn
Cúi đầu xin chịu giữ luật
răn
Mong cầu sự bình an hỷ
lạc.
NIỆM TĂNG:
Kính lạy cả chư tăng
tinh khiết
Đáng cho người lành biết
cúng dâng.
Bật cao tăng dứt sự vui
mừng
Diệt tội lỗi trừ rồi
nhơ tánh.
Là tăng đã đắc thành quả
Thánh
Tăng quá khứ hiện tại vị
lai.
Kính lạy tăng y luật
Như Lai
Tu chơn lý không nài
lao khổ
Dứt tội lỗi thân mình đặng
độ
Nhập Niết Bàn khỏi khổ
trần lao
Cùng chư tăng chẳng hạn
bật nào
Từ sơ quả lên cao la
hán
Đều đáng kể cho người
xưng tán
Kẻ làm lành nên ráng
cúng dâng.
Tăng ấy là ruộng báu
cho trần
Nên gieo giống ân cần chớ
muộn.
Bố thí chỉ được y dạ muốn
Quyết một lòng kính dạ
nhớ ghi
Thật tăng này quí báu
không bì
Đệ tử nguyện qui y hướng
thiện
Cầu lượng cả ơn trên
xin miễn
Chư lỗi lầm chí nguyện
ăn năn
Cúi đầu xin chịu giữa
luật răn
Mong cầu sự bình an hỷ
lạc.
04/04/1966 Bình Ngọ
Người không tu gì cả, cứ mỗi ngày đêm 3 biến niệm Phật,
Pháp, Tăng cũng siêu về chỗ lành, có thể vào hàng Thánh.
(Hình 136)
pháp thân
Chánh Pháp trụ
3 Bồ Tát
Tăng lữ gồm 500 pháp
thân cho 1.
Trong đời tu được 500
thân, vào quả vô sanh mới vui.
Trong tam thân ta chứa
chừng nầy pháp thân.
Cần xem trong mỗi lớp
Pháp mình tạo, thân, khẩu, ý tạo đủ 3 pháp thân trụ trong đây, gom đủ của mỗi
pháp thân có 175 pháp thân, cộng 3 thành 500 pháp thân, 3 ông thành Bồ Tát, số
mỗi ông có 175 pháp thân vây quanh nghe Pháp.
Di sơn đảo hải là vị này.
Vế Pháp quang của Pháp
Vương Tử Bồ Tát ai cũng như đây.
Chư tăng từ hư không hạ
xuống vây quanh Pháp sư.
Xem một vị Pháp sư Bồ Tát tánh trụ, đem theo bao nhiêu tăng chúng, quyến thuộc từ hư không hạ xuống, rồi vây quanh mà nghe Pháp.
Ai cũng phải tu được
như đây, xem để biết đạo.
֍֍֍
SÁM HỐI
Con kính lạy mười
phương chư Phật
Con kính lạy đức A Di
Đà Như Lai
Con kính lạy chư Phật
Pháp Tăng mười phương ba đời.
Con Pháp danh là : …
Chứng minh cho con cầu
xin phát lồ sám hối.
Cầu xin chư Phật xá tội lỗi lầm
Ăn năn gội rửa lòng phàm
Do thân, khẩu, ý việc làm đều sai
Sát sanh hại vật nhiều đời.
Tham lam sân giận miệt mài chiếm thâu.
Ý căn lường gạt dẫn đầu,
Khẩu con ton hót lọc lừa trái ngoay.
Thân con chặt chém không tha,
Tạo ra các thức bít bưng tối mù.
Nghe theo hoặc xúi người làm,
Hoặc nghe thấy ác lòng phàm vui theo,
Hoặc lấy của vật đem vào,
Tham lam của vật tự đào hầm sâu.
Lục căn con tạo từ đầu
Che dấu cất giữ biết bao cao đầy.
Ngục sâu đã tạo lâu đời,
Nay con xin sám, ngục này ngã tiêu.
Vì con khờ dại đời lâu,
Si mê lầm lạc từ đầu đến đuôi.
Giờ này con tỉnh giấc mê,
Xin cho sám hối trở về Phật môn,
Nay con tỉnh giấc mê hồn,
Vui về cõi thọ, Thế Tôn đặng gần.
Hiện giờ con sống ở trần,
Trước đây khổ đọa nhiều đời trải qua.
Từ sanh cho đến tuổi già,
Tạo ra các quả nhiều lần a tăng,
Phước phần tổn giảm tội khiêm lại nhiều.
Nay con cầu sám đủ điều
Khai ra các tội con thời đã gieo.
Hoặc chiếm chồng vợ người ta
Chửi cha mắng mẹ mắc vào tội khiêm
Hoặc thâu chiếm đoạt của tiền
Hoặc cướp vàng bạc làm riêng của mình
Hoặc vay không trả lại người
Chiếm thâu lường gạt nên vào hầm sâu.
Vạ tai làm quỷ không đầu
Cũng vì tham dục đọa vào âm ty
Cỏi đây là cỏi A Tỳ
Tối tăm bưng bít biết gì nửa đâu.
Thân con khổ đọa trải qua,
Tam nghiệp con nặng trụ nơi Tam Đồ.
Thân con nằm lẫn côn trùng
Bọ bay mấy cựa trùng trùng như nêm.
Trùng độc cắn rúc thân con
Ăn da hút máu buốt đau đêm ngày
Nay con biết rõ việc này
Con xin sám hối cho hàng chúng nhơn.
Đừng ai khờ dại đảo điên
Lở ra rớt xuống âm cung khó về.
Con sám xin đức Bồ Đề
Ban ân xá tội con về bồng lai.
Con xin ghi nhớ đêm ngày
Đời đời kiếp kiếp con thời không quên.
Nguyện lìa các việc tham cầu
Con tu thành đạo ngỏ hầu độ linh
Sau còn thân quyến của con
Hằng sa quyến thuộc đủ duyên siêu về.
Con sám cho chúng lìa mê
Quy theo chánh pháp đặng bề lạc an.
Con sám cho đủ các hàng
Âm dương hai pháp thuận đàng quy chơn.
Con sám cho cả chúng sanh.
Nhơn thiên đủ đạo thánh hiền cao ngôi.
Con sám tiêu tắt luân hồi
Diệt trừ phiền não đặng hồi pháp quang.
Con sám cho cả mười phương
Noãn, thai, thấp hóa đồng thanh trở về.
Con sám cho cả cỏ cây
Đất đá tứ đại đồng siêu một lần.
Con sám cho chị cho em
Chư nhơn kiến đẳng giác chơn đủ đầy.
Con sám cho mẹ nhiều đời
Cho cha nhiều kiếp đồng thời đặng siêu.
Con sám cho đủ căn lành
Người người thừa hưởng pháp ban Phật thừa
Chúng sanh đầy đủ căn cơ
Nhờ ơn đức Phật điểm tô pháp mầu.
Đức tin nhẫn nhục làm đầu
Từ bi hạ liệt, là câu sửa mình.
Con sám tất cả đức lành
Quỷ ma dứt nghiệp đều thành đạo chơn
Chúng sanh tiêu tắt nghiệp duyên
Lìa xa ba cõi đảo điên của đời
Trụ về cõi Pháp tam ngôi
Vô sanh pháp nhẫn đặng phần chơn như.
Thành chơn vô lậu con về
Đạo lành đắc giác lìa mê
Nhất thừa đại đạo đủ bề cao thanh
Chơn như đầy đủ đạo lành
Đạo chơn chánh kiến chuyển thành thần thông
Kim thân đủ cứng như đồng
Đủ ba ngôi sáng, tám đường cao ngôi.
Đắc chơn chánh kiến Phật thừa
Pháp mầu mở rộng cao siêu
Mười phương du hí đủ điều pháp thanh.
Con sám đầy đủ duyên lành
Cầu xin chư Phật ban ơn đủ đầy.
Nam mô cầu xám hối thập phương chư Phật (3 lần)
Nam mô cầu sám hối A Di Đà Như Lai (3 lần)
(Kinh sám này dành cho con đạo đã qui y Phật Pháp A Di Đà)
1959
Chư đệ - các em cần Pháp Đà La Ni thì trì Đại Bi Chú mỗi đêm 108 biến cho đủ 6 lần, cho 6 căn thân.
3x6=18, 6x18=108
Sẽ đặng Pháp Đà La Ni,
ngữ ngôn Đà La Ni, tổng trì Đà La Ni…
Chuyển Pháp Luân 24/02
của Bồ Tát.
Ai gắng đạt quả này
cũng vui.
֍֍֍
ĐẠO QUẢ VÀ PHÁP BẢO
Chơn tu đắc quả
Tùy theo mà được nhập
Pháp Bảo
Pháp Bảo đều có đẳng cấp,
có thứ bật.
Từng lớp Pháp mà trụ.
Thí dụ:
Ở cõi dục Thiên thì làm
Thiên Pháp, chúng sanh sống tùy theo đạo phẩm và công đức.
Dục Thiên bao năm tính
theo cõi đó, ở cõi trần 100 năm tính theo ở đây, cõi Thiên Sắc từ 500 năm đến 800
năm tính theo cõi đó.
Ở đây ta sống trong cái
tối, làm qua là quên lãng, không thấy món gì.
Có cõi 10-20-50 tiểu kiếp,
Pháp đặc, ta làm gì vẫn hiện ở trước, như vừa làm xong, nhưng đã lâu, quá xa mà
coi như hiện tại, vì cái làm nó không có mất đi, trăm năm ngàn năm cũng như hiện
tại.
Ngày 27/01 năm Kỷ Tỵ ta phóng về cõi hư không
lâu 1h32 phút, trụ phía đông lúc 10h30 phút.
SỐ ĐÂY KHÔNG THEO TÀ
ĐÃ CÓ DANH HÀM Ở HỘI ĐỒNG
TAM BẢO
Ta không dụ dỗ đệ tử của các đạo, ai thuộc Pháp ta thì ta lãnh.
Ai qui đâu thì về đấy,
một số còn lại thuộc Nam Thiên ta đón độ.
֍֍֍
XEM CON CHÁU PHẬT THÌ VỀ PHẬT
Ai theo đồng bóng thì đừng đến lại đây.
Đạo ta không hề có bóng
tà ma.
Ngoại đạo, tà thần, thì
theo nhau, ta không thèm dụ dỗ ai đâu nghe…